Latest Post

Khi đề cập mối quan hệ giữa tiền tệ và lạm phát, Friedman cho rằng “lạm phát luôn luôn và bất cứ ở đâu đều là hiện tượng tiền tệ” (Inflation is always and everywhere a monetary phenomenon). Khi đó lạm phát được định nghĩa là một sự tăng giá nhanh và liên tục. Hầu hết các nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ, hoặc trường phái Keynes cũng đồng ý với nhận định của Friedman.

Quan điểm các nhà thuộc trường phái tiền tệ:
Trước hết, bằng việc sử dụng phân tích của các nhà kinh tế tiền tệ, chúng ta hãy xem kết quả gia tăng cung tiền tệ liên tục được minh họa ở bên dưới.
Phản ứng giá cả đối với sự gia tăng tiền tệ liên tục
 Khởi đầu nền kinh tế cân bằng ở điểm 1 (giao giữa AD1 và AS1). Nếu cung tiền gia tăng qua mỗi năm, làm cho tổng cầu dịch chuyển sang phải đến AD2. Khi đó nền kinh tế tiến đến cân bằng ở điểm 1’ với đặc điểm: sản lượng gia tăng, thất nghiệp giảm.Thế nhưng, với sự mở rộng sản xuất đến lượt nó sẽ làm gia tăng chi phí. Và đường AD2 sẽ lập tức di chuyển qua trái, cắt đường AS2 tạo ra điểm cân bằng mới ở điểm 2, với mức giá gia tăng từ P1>P2. Cứ như vậy, nếu cung tiền cứ gia tăng thì mức giá gia tăng và lạm phát xảy ra. Nghĩa là M tăng lên à P tăng lên. Trong phân tích cùa các nhà kinh tế tiền tệ, cung tiền được xem như là nguồn duy nhất làm dịch chuyển đường cầu AD, không có yếu tố khác làm di chuyển nền kinh tế từ điểm 1 đến 2 và 3 và hơn nữa. 

Theo PGS-TS. Sử Đình Thành, TS. Vũ Thị Minh Hằng, Gs-TS. Dương Thị Bình Minh, Ths. Phạm Văn Hiếu, Ths. Nguyễn Anh Tuấn, TS. Bùi Thị Mai Hoài, TS. Diệp Gia Luật. 2008. Nhập môn tài chính tiền tệ. Nhà xuất bản Lao Động Xã Hội. Hà Nội.

Kinh tế học : Nguyên nhân gây ra lạm phát theo quan điểm các nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ 

Bản thân tiền giấy không có giá trị nội tại mà chỉ mang giá trị danh nghĩa. Do đó, khi có hiện tượng thừa tiền giấy trong lưu thông thì người ta không có xu hướng giữ lại trong tay mình những đồng tiền bị mất giá và lượng tiền thừa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Lạm phát (inflation) là gì
Nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ lạm phát (inflation), nhưng nói chung chưa có một sự thống nhất hoàn toàn. Quan điểm cổ điển cho rằng lạm phát xảy ra khi số tiền lưu hành vượt quá dự trữ vàng làm đảm bảo của ngân hàng phát hành. Cụ thể người ta dự vào tỷ lệ đảm bảo của tiền tệ để xem xét có lạm phát hay không. Chẳng hạn nếu pháp luật ấn định rằng tỷ lệ đảm bảo tối thiểu của tiền tệ 40%, khi tỷ lệ đó xuống dưới mức pháp định tức là ngân hàng đã phát hành tiền quá mức. Quan điểm này coi trọng cơ sở đảm bảo của tiền. Trong thực tế, có những trường hợp tỷ lệ đảm bảo pháp định vẫn được tôn trọng nhưng giá cả của hàng hóa đều lên cao. Nước Đức năm 1934 đã tránh được nạn lạm phát mặc dù tỷ lệ đảm bảo của đồng Mark xuống dưới 2%.

Quan điểm khác cho rằng lạm phát là sự mất cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế. Có thể tóm tắt trong phương trình Fisher: M.V=P.Y. Nếu tổng khối lượng tiền lưu hành (M) tăng thêm trong khi tổng lượng hàng hóa – dịch vụ được trao đổi (Y) giữ vững, tất nhiên mức giá trung bình (P) phải tăng. Và nếu thêm vào đó tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tăng thì P lại tăng rất nhanh. Để khắc phục tình trạng này cần dùng biện pháp thích hợp để thiết lập lại cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế.
Quan điểm tĩnh về lạm phát nêu trên tuy giúp ta hiểu rõ về lạm phát, nhưng không cho biết nguyên nhân của lạm phát và khiến cho ta lầm tưởng lạm phát cao là kết quả của việc tăng trưởng mức cung tiền tệ cao. Thật ra trong nhiều trường hợp không hẳn là như vậy, nhà nước có thể tăng cung ứng tiền tệ mà không làm cho giá cả tăng, không gây ra lạm phát, nếu như khối lượng tăng đó phù hợp với khối tiền cần thiết cho lưu thông, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.

Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng giá của các loại hàng hóa (tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất và hàng hóa sức lao động). Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng. Theo quan điểm này thì giá cả tăng lên cho dù bất kỳ nguyên nhân nào đều là lạm phát. Lạm phát và giá cả tăng đều cùng một ý nghĩa. Thật ra giá cả đồng loạt tăng lên chỉ là một trong những biểu hiện cơ bản của lạm phát mà thôi.

Vậy lạm phát là gì? Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các lại hàng hóa tăng lên đồng loạt.

Theo PGS-TS. Sử Đình Thành, TS. Vũ Thị Minh Hằng, Gs-TS. Dương Thị Bình Minh, Ths. Phạm Văn Hiếu, Ths. Nguyễn Anh Tuấn, TS. Bùi Thị Mai Hoài, TS. Diệp Gia Luật. 2008. Nhập môn tài chính tiền tệ. Nhà xuất bản Lao Động Xã Hội. Hà Nội.

Đo mức độ lạm phát như thế nào?
Kinh tế học : Lạm phát (inflation) là gì? Các quan điểm về lạm phát?


BusinessDictionary.com: A sustained, rapid increase in prices, as measured by some broad index (such as Consumer Price Index) over months or years, and mirrored in the correspondingly decreasing purchasing power of the currency. It has its worst effect on the fixed-wage earners, and is a disincentive to save.
There is no one single, universally accepted cause of inflation, and the modern economic theory describes three types of inflation: (1) Cost-push inflation is due to wage increases that cause businesses to raise prices to cover higher labor costs, which leads to demand for still higher wages (the wage-price spiral), (2) Demand-pull inflation results from increasing consumer demand financed by easier availability of credit; (3) Monetary inflation caused by the expansion in money supply (due to printing of more money by a government to cover its deficits).

Khi Nhà Trắng vẫn tiếp tục đàm phán với các nhà lãnh đạo quốc hội về một thỏa thuận ngân sách vào cuối tuần này, người đứng đầu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund) Christine Lagarde nói rằng cô "không thể tưởng tượng lần thứ hai" rằng Hoa Kỳ sẽ mặc định về nghĩa vụ nợ của mình, đó sẽ là "một cú sốc thực sự" cho nền kinh tế toàn cầu nếu không thoả thuận được.

Christine Lagarde 'Can't Imagine' United States Would Default on Debt

"Thách thức đó không chỉ là của Hoa Kỳ, mà còn là của phần còn lại của thế giới."
IMF đã được tạo ra sau khi chiến tranh thế giới thứ II của Mỹ và các đồng minh châu Âu của mình để giám sát các nền kinh tế toàn cầu và là một người cho vay cuối cùng, để các nước gặp khó khăn về tài chính, trong khi cũng thúc đẩy việc làm toàn cầu và tăng trưởng.

Lagarde, người trước đây từng là Bộ trưởng Tài chính Pháp, cho biết có thể có "những hậu quả thực sự khó chịu", như tăng lãi suất, thị trường chứng khoán ảm đạm, thất nghiệp gia tăng, và giảm đầu tư nếu không đạt được một thỏa thuận tháng tám này.

Theo ABCNews
Christine Lagarde: không thể tưởng tượng Hoa Kỳ sẽ vỡ nợ

Kinh tế phát triển là gì?

   

Kinh tế phát triển (Economics of development) là một trong những khoa học kinh tế khám phá và giải thích quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kinh tế phát triển thể hiện một lĩnh vực nghiên cứu khoa học riêng về mặt lý thuyết và còn đúc kết được nhiều kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới.
Mục tiêu của Kinh tế phát triển là nhằm cung cấp một cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn trong phát triển kinh tế, để các nước đang phát triển có thể vận dụng vào hoàn cảnh riêng, tìm kiếm được con đường phát triển thích hợp, cải thiện tình trạng chưa tiến bộ của từng quốc gia. 

Môn học Kinh tế phát triển được đưa vào giảng dạy ở các trường đại học trên thế giới từ rất lâu. Riêng Việt Nam, chính thức đưa vào giảng dạy trong các trường đại học khối kinh tế từ năm học 1993-1994. Trải qua nhiều khóa học từ đó đến nay, môn học tỏ ra đã hấp dẫn với các đối tượng học viên khác nhau. Môn học được đánh giá là một mảng kiến thức kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế nông nghiệp truyền thống sang nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế đã làm ngạc nhiên thế giới và được các tổ chức quốc tế đánh giá cao, như duy trì một tốc độ tăng trưởng cao và ổn định trong thập niên gần đây, tiến bộ liên tục của chỉ số phát triển con người (Human Development Index HDI), xóa bớt đói nghèo, chất lượng cuộc sống của đại bộ phận dân cư trong xã hội được cải thiện, môi trường tự nhiên và môi trường sống của con người được quan tâm gìn giữ. 

Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam còn phải đương đầu với những thách thức đặt ra. Việc lựa chọn được những bước đi thích hợp, nên đẩy mạnh chiến lược phát triển nào, đáp ứng được các mục tiêu nào của phát triển kinh tế bền vững đều là những vấn đề mà có thể được soi rọi từ Kinh tế phát triển

Theo Ts. Đinh Phi Hổ, Ts. Lê Ngọc Uyển, Ths. Lê Thị Thanh Tùng (2009), Kinh tế phát triển: Lý thuyết và thực tiễn, Nhà xuất bản Thống kê, TP. Hồ Chí Minh.

 Kinh tế phát triển là gì?

Có thể bạn sẽ nhầm từ “civets = civet cat” (mèo hương)!

 Khi các nước nhóm họp lại với nhau, vì một mục đích kinh tế hay chính trị nào đó, thì thường họ sẽ có một tên gọi tắt.
Tương tự như BRICs (một thuật ngữ do Goldman Sachs đề xuất năm 2003 để chỉ các thị trường mới nổi: Brazil, Russia, India, China), CIVETS là viết tắt của nhóm các thị trường mới nổi thứ hai gồm Colombia, Indonesia, Vietnam, Egypt (Ai cập), Turkey (Thổ nhĩ kỳ) và South Africa (Nam Mỹ).

Các thị trường mới nổi thứ hai CIVETS
 Điểm chung của CIVETS là dân số trẻ và đông, chính trị tương đối ổn định, nền kinh tế đa dạng, hệ thống tài chính khá tốt, và đặc biệt là không bị lạm phát cao, mất cân bằng thương mại và nợ công đe dọa.

Năm 2010 Dân số   (triệu người) GDP/người     (USD, PPP) CPI   (%) Cán cân ngân sách (%GDP)
Colombia 46.9 8,920 2.6 -3.9
Indonesia 243.0 4,230 5.1 -2.2
Việt Nam 87.8 3,150 9.3 -7.7
Ai Cập 84.7 5,910 11.8 -8.7
Thổ Nhĩ Kỳ 73.3 12,740 8.7 -4.5
Nam Phi 49.1 12,730 5.8 -6.3
 (Nguồn: Economist Intelligence Unit, Country Data)

Vài nét sơ lược:

Colombia
Colombia được biết đến từ những chính sách của cựu tổng thống Alvaro Uribe năm năm trước đó.
Những chính sách của ông đã khuyến khích các công ty tham gia và phát triển nguồn dầu của Colombia. Những đồng đôla tạo ra lại tiếp tục được tái đầu tư cơ sở hạ tầng cho đất nước và tạo công ăn việc làm.

Indonesia
Indonesia có lợi thế từ nhân khẩu, với hơn một nửa dân số là 25 tuổi và thấp hơn, chi phí lao động thấp nhất khu vực châu Á – Thái Bình Dương, theo JP Morgan. Từ năm 2006 – 2009, GDP theo đầu người tăng 11% /năm, điều quan trọng là sự tăng trưởng này là do khu vực tư nhân, chứ không phải do chi tiêu chính phủ.


Indonesia có mức lương thấp nhất khu vực châu Á – Thái Bình Dương
 Việt Nam
Thu nhập bình quân đầu người năm 2009 là 1.064 $ gần gấp 5 lần so với giữa những năm 1990. Ngoài ra, đầu tư ròng về vàng (net retail gold investment) tại Việt Nam, theo Hiệp hội vàng thế giới, vượt quá 500.000 ounces trong quý đầu năm 2010 và tăng 20% nhu cầu vàng trang sức.

Thổ Nhĩ Kỳ
Thổ Nhĩ Kỳ là một nền kinh tế năng động và luôn hướng đến phát triển bền vững.
Là nền kinh tế lớn thứ 6 châu Âu và top 20 toàn thế giới, GDP 2009 là 615 tỷ USD. Kết thúc tháng 3/2010, lạm phát đã giảm 6,1 % so với năm ngoái (xuống còn 1 con số) và nợ công thấp hơn 40% GDP. 
Trong tình hình biến động kinh tế ở châu Âu (thị trường châu Âu chiếm hơn nửa giá trị xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ), chính phủ đã tăng hoạt động giao thương đến các đối tác từ Trung Đông - Ả Rập Saudi, Iraq, Ai Cập.

Xem thêm về thị trường mới nổi (emerging markets) tại: www.usfunds.com/interactive/whats-driving-emerging-markets/?CFID=3579219&CFTOKEN=73297715

 Kinh tế học : Các thị trường mới nổi thứ hai CIVETS được hiểu là gì?

Để đơn giản và cũng không mất tính tổng quát, xét mô hình một biến độc lập:
Yi = β1 + β2X2i  + Ui

Giả thiết của phương sai OLS (Ordinary Least Squares) yêu cầu phương sai sai số là đồng nhất
Var (Ui) Ξ σ2  (với mọi i), σ2 là một hằng số dương cố định.
Khi đó, phương sai sai số được gọi là không đổi, hay đồng đều, thuần nhất (homoscedasticity hay homoskedasticity).

Khi giả thiết không được thỏa mãn, phương sai sai số ứng với quan sát i là những đại lượng không bằng nhau:
Var (Ui) # Var (Uj)  i#j. Nếu đặt Var (Ui) = σ2i  thì σ2i # σ2j . Khi đó, phương sai sai số được gọi là thay đổi, không đồng đều, không thuần nhất (heteroscedasticity hay heteroskedasticity).


Theo PGS. TS. Nguyễn Cao Văn, ThS Bùi Dương Hải, 2009, Kinh tế lượng: Hướng dẫn trả lời lý thuyết và giải bài tập, nhà xuất bản Tài Chính, Hà Nội.


Thế nào là hiện tượng phương sai sai số thay đổi trong kinh tế lượng (econometrics) ?

Kinh tế lượng (econometrics)

Hiện nay chưa có một định nghĩa chính xác và chính xác về kinh tế lượng. Các nhà khoa học nghiên cứu kinh tế lượng bắt đầu từ những cách tiếp cận khác nhau, do đó có những quan niệm khác nhau về kinh tế lượng.

Kinh tế lượng (Econometrics) là gì

 Một số định nghĩa về kinh tế lượng:
  • Kinh tế lượng là việc áp dụng các kĩ thuật thống kê vào việc đánh giá, kiểm định các lý thuyết kinh tế (theo businessdictionary.com).
  • Kinh tế lượng là việc áp dụng các phương pháp thống kê và toán học trong lĩnh vực kinh tế nhằm kiểm định, đo lường các lý thuyết kinh tế và các giải pháp kinh tế (theo pitmaster.com).
  • Kinh tế lượng là bao gồm xây dựng các mô hình toán mô tả các mối quan hệ kinh tế, kiểm định sự phù hợp của các giả thuyết và ước lượng các hệ số nhằm lượng hóa các tác động của các biến độc lập (theo Dictionary of Economics).
Theo PGS. TS. Nguyễn Cao Văn, ThS Bùi Dương Hải, 2009, Kinh tế lượng: Hướng dẫn trả lời lý thuyết và giải bài tập, nhà xuất bản Tài Chính, Hà Nội.

Kinh tế lượng (Econometrics) là gì

Author Name

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.