tháng 11 2010

Cách học tiếng Anh theo Phương pháp POWER
của
GS Robert Feldman (ĐH  Massachusetts)
Từ  Power ở đây vừa có nghĩa là sức mạnh, năng lực, vừa là tên gọi của một  phương pháp học tập ở bậc đại học do GS Robert Feldman (ĐH  Massachusetts) đề xướng nhằm hướng dẫn SV, đặc biệt là SV năm 1, cách  học tập có hiệu quả nhất.
Phương pháp Power bao gồm 5 yếu tố cơ bản:

1. Prepare (chuẩn bị sửa soạn):
Quá  trình học tập ở đại học không phải chỉ bắt đầu ở giảng đường khi SV  nghe thầy giáo giảng bài hoặc trao đổi, tranh luận với các bạn đồng học.  Quá trình này chỉ thật sự bắt đầu khi SV chuẩn bị một cách tích cực các  điều kiện cần thiết để tiếp cận môn học như: đọc trước giáo trình, tìm  tài liệu có liên quan. Sự chuẩn bị tư liệu này càng trở nên hiệu quả hơn  khi đi liền với nó là một sự chuẩn bị về mặt tâm thế để có thể tiếp cận  kiến thức một cách chủ động và sáng tạo. Với sự chuẩn bị tâm thế này,  SV có thể chủ động tự đặt trước cho mình một số câu hỏi liên quan đến  nội dung sẽ được đặt trên lớp, thậm chí có thể tự tạo cho mình một cái  “khung tri thức” để trên cơ sở đó có thể tiếp nhận bài học một cách có  hệ thống. Với cách chuẩn bị tích cực này, tri thức mà SV có được không  phải là một tri thức được truyền đạt một chiều từ phía người dạy mà còn  do chính SV tự tạo ra bằng cách chuẩn bị các điều kiện thực thể và tâm  thể thuận lợi cho sự tiếp nhận tri thức. Nói “học là quá trình hợp tác  giữa người dạy và người học” có nghĩa là như vậy.

2. Organize (tổ chức):
Sự  chuẩn bị nói trên sẽ được nâng cao hơn nữa khi SV bước vào giai đoạn  thứ hai, giai đoạn người SV biết tự tổ chức, sắp xếp quá trình học tập  của mình một cách có mục đích và hệ thống.

3. Work (làm việc):
Một  trong những sai lầm của việc học tập cũ là tách rời việc học tập ra  khỏi lao động trong khi lao động(làm việc) chính là một quá trình học  tập có hiệu quả nhất. Trong giai đoạn này SV phải biết cách làm việc một  cách có ý thức và có phương pháp ở trong lớp và trong phòng thí nghiệm,  thực hành. Các hình thưcs lao động trong môi trường đại học rất đa  dạng, phong phú: lắng nghe và ghi chép bài giảng, thuyết trình hoặc thảo  luận, truy cập thông tin, xử lí các dữ liệu, bài tập, thực tập các thí  nghiệm, tất cả đều đòi hỏi phải làm việc thật nghiêm túc, có hiệu quả.

4. Evaluate (đánh giá):
Ngoài  hệ thống đánh giá của nhà trường, SV còn phải biết tự đánh giá chính  bản thân mình cũng như sản phẩm do mình tạo ra trong quá trình học tập.  Chỉ có qua đánh giá một cách trung thực,SV mới biết mình đang đứng ở vị  trí, thứ bậc nào và cần phải làm thế nào để có thể cải thiện vị trí, thứ  bậc đó. Tự đánh giá cũng là một hình thức phản tỉnh để qua đó nâng cao  trình độ và ý thức học tập.

5. Rethink (suy nghĩ lại):
Khả  năng suy nghĩ lại này giúp SV luôn biết cách cải thiện điều kiện,  phương pháp và kết quả học tập của mình. Về bản chất, tư duy đại học  không phải là một thứ tư duy đơn tuyển, một chiều mà đó chính là hình  thức tư duy đa tuyển, phức hợp đòi hỏi người học, người dạy, người  nghiên cứu phải có tính sáng tạo cao, luôn biết cachs lạt ngược vấn đề  theo một cách khác, soi sáng vấn đề từ những khía cạnh chưa ai đề cập  đến. Khả năng suy nghĩ lại này cũng gắn liền với khả năng làm lại (redo)  và tái tạo quá trình học tập trên can bản nhận thức mới đối với vấn đề  và kết quả đã đặt ra.
Cuối  cùng, chữ R của giai đoạn thứ năm này cũng có nghĩa là Recreate (giải  lao, giải trí, tiêu khiển), một hoạt động cũng quan trọng không kém so  với các hoạt động học tập chính khóa. Ở đây cần nhớ rằng ai không biết  cách nghỉ ngơi, giải trí, tiêu khiển thì người đó cũng không biết cách  học tập hoặc học tập không có kết quả cao.
Theo Tuổi trẻ

Học tiếng Anh, vui nhất là được gặp người nước ngoài và chỉ đường cho họ! Có bao giờ bạn thấy trống ngực đánh thình thịch, miệng câm như hến và bối rối chỉ biết đánh vần như ghép từ hoặc dùng tay ra dấu mà thôi?!
Ai mới học cũng zậy mà ^^" 


Lời chỉ dẫn
 
Go straight on Elm Street.
Đi thẳng đường Elm.
Go along Elm Street.
Đi thẳng đường Elm.
Go down Elm Street.
Đi xuống đường Elm.
Follow Elm Street for 200 metres.
Đi thẳng đường Elm 200 mét.
Follow Elm Street until you get to the church.
Đi theo đường Elm cho đến khi bạn nhìn thấy nhà thờ.
Turn left into Oxford Street.
Rẽ trái vào đường Oxford.
Turn right into Oxford Street.
Rẽ phải vào đường Oxford.
Take the first turning on the right.
Rẽ phải ở ngã rẽ đầu tiên.
Go past the pet shop.
Đi qua cửa hàng bán thú nuôi.
Go along the river.
Đi dọc bờ sông.
Go over the bridge.
Đi qua cầu.
Go through the park.
Băng qua công viên.
Go towards the church.
Đi theo hướng đến nhà thờ.
Go up the hill.
Đi lên dốc.
Go down the hill.
Đi xuống dốc.
Cross Oxford Street.
Băng qua đường Oxford.
The bookshop is opposite the church.
Hiệu sách ở đối diện nhà thờ.
The bookshop is between the church and the pet shop.
Hiệu sách nằm giữa nhà thờ và cửa hàng bán thú nuôi.
The bookshop is on/at the corner.
Hiệu sách nằm ở góc phố.
The bookshop is in front of the church.
Hiệu sách nằm trước nhà thờ.
The bookshop is behind the church.
Hiệu sách nằm sau nhà thờ.
The bookshop is next to the church.
Hiệu sách nằm sát cạnh nhà thờ.
The bookshop is beside the church.
Hiệu sách nằm cạnh nhà thờ.
The bookshop is near the church.
Hiệu sách nằm gần nhà thờ.
car park
parking lot
Bãi đỗ xe
crossroads
Đường giao nhau
roundabout
Đường vòng
traffic lights
Đèn giao thông

Một số đoạn hội thoại mẫu về cách hỏi và chỉ đường:

Hội thoại 1:
Bạn: Do you know where is the central bus station?
Anh có biết trạm xe buýt trung tâm ở đâu không?
A: Yes. Turn right at the next traffic light. It’s near the post office.
Có chứ. Anh đi đến cột đèn giao thông tiếp theo thì rẽ phải. Trạm xe buýt ở gần bưu điện đấy

Hội thoại 2:
Bạn: How can I get to the train station?
Làm thế nào để tôi có thể đi đến ga tàu hỏa?
A: Take this road until you see the shopping center. The train station is across from the park.
Anh đi theo đường này cho đến khi nhìn thấy khu mua sắm. Ga tàu nằm ở bên kia đường của công viên.

Hội thoại 3:
Bạn: Where is the Supermarket?
Xin hỏi siêu thị nằm ở đâu?
A: It is in the mall.
Nó nằm trong khu mua sắm.
Bạn: How far is it from here?
Nó ở cách đây bao xa?
A: About 5 minutes drive. At the next junction make a U-turn on the one-way street. The mall will be on your left.
Khoảng 5 phút lái xe. Ở chỗ đường giao nhau tiếp theo anh quay đầu lại vào làn đường một chiều. Khu mua sắm sẽ nằm ở bên trái.

Hội thoại 4:
Bạn: Is this the direction to the beach?
Xin hỏi đây có phải đường ra bãi biển không?
A: You are going in the wrong direction. Turn around. Go back that way you came and turn left at the lights.
Các bạn đang đi sai hướng rồi. Quay xe và đi lại con đường mà các bạn vừa đi, đến cột đèn giao thông thì rẽ trái.

Hội thoại 5:
Bạn: Is there a pharmacy nearby?
Xin hỏi có hiệu thuốc nào gần đây không?
A: Yes, it is just up the walkway, after the stop sign on your right.
Có, nó nằm ngay trên tuyến phố đi bộ, sau biển báo dừng, ở bên tay phải.
Bạn: Is there a Church nearby?
Xin hỏi có nhà thờ nào ở gần đây không?
A: Yes, drive straight, through the roundabout. You will see a Church  along the boulevard. You can park in the adjacent parking lot.
Có, anh lái xe đi thẳng. đi qua đường vòng. Bạn sẽ thấy nhà thờ nằm dọc trên đại lộ. Anh có thể đỗ xe ở bãi đỗ ngay cạnh đó.

Hội thoại 6:
Bạn: Where is the museum?
Viện bảo tàng nằm ở đâu?
A: Next to the church on the boardwalk.
Nó ở cạnh nhà thờ trên đường dọc theo bãi biển.

Hội thoại 7:
Bạn: How can I get to the airport from here?
Từ đây làm thế nào để tôi có thể ra đến sân bay?
A: To get there, take the freeway north. Turn off at the 3rd exit. You will see signs from there.
Từ đây anh đi theo đường cao tốc phía Bắc, dừng lại ở ngã rẽ số 3. Anh sẽ thấy biển chỉ dẫn từ đó.

Hội thoại 8:
Bạn: What is the fastest way to get to the hospital?
Đường nhanh nhất đến bệnh viện là đường nào?
A: Drive south on highway. Leave the highway at the 2nd exit. From there, follow the signs at every traffic light.
Đi về phía Nam trên đường quốc lộ. Rẽ khỏi đường quốc lộ ở ngã rẽ thứ  2. Từ đây, đi theo các biển chỉ dẫn ở mỗi cột đèn giao thông.

Nguồn từ LuyenDich.com

 Cách hỏi và chỉ đường bằng tiếng Anh đơn giản


Kinh tế học : Tối ưu Pareto (Pareto optimum)

Khi các nguồn lực và sản lượng của một nền kinh tế được phân chia mà không có sự phân chia lại làm cho bất cứ ai khá lên mà cũng không làm cho ít nhất là bất cứ một người nào khác kém đi thì lúc đó là có sự hiện hữu của một tối ưu Pareto. Khái niệm này do Vilfredo Pareto đề xuất và được lấy tên ông để gọi. Một sự phân chia lại các nguồn lợi mà làm cho ít nhất một người khá lên trong khi không làm cho bất cứ ai kém đi thì được gọi là sự cải thiện Pareto.

Phần lớn kinh tế học phúc lợi chú ý phân tích các điều kiện trong đó có thể thực hiện một tối ưu Pareto. Cho dù nó có tầm quan trọng về phân tích, nhưng tiêu chuẩn vế Pareto mang lại một tính giới hạn lớn vì không đưa ra được hướng dẫn để lựa chọn giữa các giải pháp thường làm cho một người khá lên trong khi gây tồn hại cho một người khác. Do hầu hết bất cứ chính sách kinh tế nào cũng sẽ có điều bất lợi cho một người nào đó, đây là một sự hạn chế lớn.

Để khắc phục điều này, một số nhà kinh tế học đã tìm cách bổ sung tiêu chuẩn Pareto bằng những tiêu chuẩn dựa vào sự công bằng về phân phối, trong khi một số nhà kinh tế học khác đã xem xét đến việc sử dụng các kiểm định bù trừ.

Theo David W. Pearce - Giám đốc Trung tâm kinh tế môi trường London – (1999).
Từ điển Kinh tế học hiện đại. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.


Kinh tế học : Các điều kiện Pareto (Pareto conditions) là gì?

Một loạt quy tắc đặt ra trong kinh tế học phúc lợi, nếu thực hiện được sẽ đưa đến một tối ưu Pareto. Nói tóm tắt, những quy tắc này là:

1.     Tỷ lệ thay thế biên trong tiêu dùng (tỷ lệ mà một người tiêu dùng có thể trao đổi một hàng hóa lấy một hàng hóa khác mà không làm tốt hơn hàng hoặc kém đi) giữa bất cứ hai mặt hàng nào cũng phải như nhau đối với mọi người tiêu dùng.

2.     Tỷ lệ thay thế biên của kĩ thuật (tỷ lệ mà một yếu tố sản xuất có thể được thay thế cho một yếu tố khác trong khi vẫn duy trì các mức sản lượng) giữa bất cứ hai yếu tố sản xuất nào, phải giống nhau ở bất cứ chi tiết nào mà các yếu tố này sử dụng.

3.     Tỷ lệ biến đổi biên (tỷ lệ mà nền kinh tế xét toàn bộ phải bỏ qua sự sản xuất bất cứ một mặt hàng để tăng sản lượng của một mặt hàng khác) đối với bất cứ hai mặt hàng hóa nào cũng phải bằng tỷ lệ thay thế biên trong tiêu dùng của hai mặt hàng này.

Theo David W. Pearce - Giám đốc Trung tâm kinh tế môi trường London – (1999).
Từ điển Kinh tế học hiện đại. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.


Kinh tế học : Sự phân phối lại tối ưu theo pareto
(Pareto – optimal redistribution)

Sự dịch chuyển thu nhập hoặc của cải từ một cá nhân này sang cá nhân khác làm tăng độ thỏa dụng hoặc sự thỏa mãn của cả người cho lẫn người nhận, do đó đem lại sự cải thiện Pareto.

Sự phân phối lại tối ưu theo Pareto có thể xảy ra nếu như một cá nhân nhận được một lợi ích nào đó từ một cá nhân khác – coi như kết quả của một tình cảm nhân đạo (Tặng quà cho hội từ thiện là một ví dụ về kiểu phân phối này).

Kinh tế học phúc lợi theo truyền thống đã dựa vào nguyên lý Pareto, nguyên lý này đòi hỏi có một sự thay đổi để làm cho ít nhất một người khá lên và không ai kém đi, sự thay đổi này có thể coi là một sự cải thiện. Do đó, các vấn đề về sự phân phối lại nói chung làm cho một số người kiếm được lợi trong khi gây hại cho một nhóm khác, khó phân tích trong khung cảnh kinh tế học phúc lợi. Tuy nhiên sự phân phối lại tối ưu theo Pareto có thể phân tích được.

Song nhiều nhà kinh tế học xem sự phân tích tối ưu Pareto là một quan điểm quá chặt chẽ đối với các vấn đề về công bằng phân phối.

Theo David W. Pearce - Giám đốc Trung tâm kinh tế môi trường London – (1999).
Từ điển Kinh tế học hiện đại. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.



Kinh tế học : Các công cụ điều tiết vĩ mô là gì?

 Các nhà kinh tế có 2 nhiệm vụ: phân tích nguyên nhân của sự thay đổi trong các biến số kinh tế và dự kiến kết quả của những thay đổi trong lựa chọn chính sách. Khi các biến mục tiêu xa rời giá trị mong muốn, có thể dùng những chính sách kinh tế để thực hiện những thay đổi cần thiết.

 Các chính sách kinh tế vĩ mô chính là các công cụ điều tiết nền kinh tế, bao gồm: chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách ngoại thương, chính sách thu nhập.

Sự phân tích tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô có thể trình bày một cách đơn giản, là nhằm đối phó với những thay đổi không nên có trong chi tiêu tư nhân.

Chính sách tài khóa có thể làm tăng sản lượng và số việc làm, bằng cách chính phủ tăng chi tiêu hoặc cắt giảm thuế suất. Ngược lại, để kiềm chế lạm phát, chính phủ có thể cắt giảm chi tiêu hàng hóa tăng thuế suất.

Về cơ bản, chính sách tiền tệ có tác động đến hai biến số kinh tế chủ yếu là cung tiền và mức lãi suất. Theo lý thuyết tiền tệ, thì mức cung tiền có liên quan trực tiếp với mức hoạt động kinh tế. Nghĩa là, số cung tiền nhiều hơn khuyến khích hoạt động kinh tế mở rộng, vì tạo cho dân chúng có khả năng mua hàng hóa và dịch vụ nhiều hơn. Những người ủng hộ lý thuyết này cho rằng bằng cách kiểm soát nguồn cung tiền, chính phủ có thể điều hòa hoạt động kinh tế và kiểm soát lạm phát. Theo lý thuyết Keynes, số cung tiền mở rộng sẽ làm tăng khả năng có những quỹ tiền tệ cho vay. Số cung tiền vượt quá số cầu, sẽ dẫn đến lãi suất giảm. Lãi suất giảm, đến lượt nó, sẽ khuyến khích những người kinh doanh mở rộng đầu tư của họ. Đầu tư tăng làm tăng tổng cầu, dẫn đến hoạt động kinh tế ở mức cao hơn, tạo nhiều công ăn việc làm hơn.
Tương tự, thời kỳ có tổng cầu tăng quá mức dẫn đến lạm phát, chính phủ theo đuổi chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm hạn chế tổng cầu bằng cách giảm cung tiền, tăng lãi suất và do đó đưa lại mức đầu tư thấp hơn với kỳ vọng lạm phát giảm.

Chính sách ngoại thương:  tác động đến cán cân thương mại và cán cân thanh toán thông qua chính sách về tỷ giá hối đoái, thuế xuất nhập khẩu, hạn ngạch...

Chính sách thu nhập: bao gồm chính sách giá cả và chính sách tiền lương.

Theo Ts. Nguyễn Như Ý, Ths. Trần Thị Bích Dung (2009), Kinh tế vĩ mô, Nhà xuất bản Thống kê.

Frank Knight (1895- 1973)

Là một nhà kinh tế học người Mỹ, Frank Knight được bổ nhiệm làm giáo sư kinh tế tại Chicago năm 1928. Ông có đóng góp quan trọng vào đạo lý và phương pháp luận của kinh tế học cũng như đối với việc định nghĩa và giải thích chi phí xã hội. Đóng góp lớn nhất của Frank Knight đối với kinh tế là tác phẩm Rủi ro, Sự không chắc chắn và Lợi nhuận (1921).

Là học trò của J. B. Clark, Frank Knight quan tâm đến việc chứng minh rằng lợi nhuận có thể tồn tại trong trạng thái tĩnh, trái ngược với ý kiến của Clark và Alfred Marshall. Những người theo Marshall lý luận rằng lợi nhuận chỉ xuất hiện như là thu nhập của các nghiệp chủ trong các điều kiện thay đổi. Trong một nền kinh tế tĩnh, các yếu tố sản xuất chỉ nhận: lương, tiền lãi và tiền cho thuê. Lợi nhuận là tiền thưởng cho tài năng của nhà doanh nghiệp trong việc tổ chức quá trình sản xuất trong điều kiện thay đổi. Frank Knight lý luận rằng không phải là thay đổi như nói trên dẫn đến lợi nhuận mà là việc đi chệch khỏi những điều kiện dự tính. Sự không chắc chắn về tương lai gây ra phần thưởng đặc biệt là lợi nhuận. Ông quan tâm đến việc phân biệt giữa sự không chắc chắn có thể bảo hiểm được và không bảo hiểm được. Chỉ có sự không chắc chắn không bảo hiểm được mới mang lại lợi nhuận thuần túy.


Lợi nhuận thuần túy là phần thưởng cho việc tiến hành sản xuất trong điều kiện không chắc chắn và do vậy liên quan đến tốc độ thay đổi các biến số kinh tế và việc liệu có các nhà doanh nghiệp có khả năng và sẵn sàng dự đoán chính xác về tương lai hay không.

Các ấn phẩm chính khác của Frank Knight bao gồm: Tổ chức kinh tế (1933), Luận lý về cạnh tranh (1935), Tự do và Đổi mới (1947), Những bài luận về Lịch sử và Phương pháp kinh tế học (1956) và Tình báo và Hành động dân chủ (1960). Là một nhà sáng lập trường phái các nhà kinh tế “Tự do” Chicago, Frank Knight đã có ảnh hưởng đáng kể đối với các thành viên của trường phái này, mặc dù ông ta bị phê phán về quyền hành của nhà nước, ông ta nghi ngờ khả năng của một xí nghiệp tự do hoạt động hiệu quả và theo một cách thức hợp đạo lý. Đặc biệt ông bị phê phán về các tác động của kinh doanh tự do đối với việc phân phối thu nhập.


Theo David W. Pearce - Giám đốc Trung tâm kinh tế môi trường London – (1999).
Từ điển Kinh tế học hiện đại. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Khi nói, chúng ta thường sử dụng từ viết tắt. Chúng ta thường làm ngắn gọn từ khi viết tin nhắn (SMS). Dưới đây là một số chỉ dẫn hữu ích về một số các từ viết tắt thông dụng nhất.


Văn Nói
gonna = is / am going to (do something)
"I'm gonna call him now." - Tôi định gọi anh ấy bây giờ
wanna = want to
"I wanna speak to you." - Tôi muốn nói chuyện với bạn
gotta = has / have got to (or have got)
"I gotta go!" - Tôi phải đi
innit = isn't it
"It's cold, innit?" - Trời lạnh có phải không?
ain't = isn't / haven't / hasn't
"He ain't finished yet." - Anh ấy vẫn chưa làm xong.
"I ain't seen him today." -Tôi vẫn chưa gặp anh ấy hôm nay.
ya = you
"Do ya know what I mean?" Bạn có hiểu tôi nói gì không?
lemme = let me
"Lemme see … tomorrow's a good time." - Để tôi xem nào ... ngày mai thì tốt đấy.
whadd'ya = what do you …
"Whadd'ya mean, you don't want to watch the game?" - Ý bạn là sao, bạn không muốn xem trận đấu à?
dunno = don't / doesn't know
"I dunno. Whadd'ya think?" - Tôi không biết. Bạn nghĩ sao?

Tin nhắn và internet
Số
2 = to / two
4 = for / four
8 = ate / eight
Letters
U = you
C = see
B = be
CU L8r = see you later
msg - message
pls = please
cld = could
gd = good
vgd = very good
abt = about
ths = this
asap = as soon as possible
tks = thanks
txt = text
LOL = lots of love / laugh out loud
x = a kiss!

Theo MEC Việt Nam 

Cách sử dụng từ viết tắt thông dụng trong tiếng Anh

Ngày 15/11, một nhóm các ngân hàng lớn trên thế giới đã công bố tăng tài trợ cho các dự án năng lượng Mặt trời, Gió và Địa nhiệt ở 20 nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, để giúp các nước này cân bằng các dịch vụ năng lượng hướng tới công nghệ sạch.


 Viet Nam duoc tai tro phat trien nang luong tai tao
Thế giới thúc đẩy sử dụng năng lượng tái sinh. 

Nhóm ngân hàng bao gồm: Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Phát triển châu Phi (AfDB), Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ (IADB) và Ngân hàng Tái thiết và phát triển châu Âu (EBRD) nhấn mạnh việc các nước đang phát triển phát triển các nguồn năng lượng tái sinh là một tín hiệu tích cực hướng tới phát triển thông minh đối với khí hậu.

Quỹ đầu tư khí hậu (CIF) của nhóm các ngân hàng trên dự kiến sẽ đầu tư 40 tỷ USD hỗ trợ các dự án năng lượng tái sinh, hiệu quả năng lượng, và vận tải sạch ở các nước đang phát triển.

Quỹ Công nghệ sạch (CTF) sẽ hỗ trợ 14 nước thu nhập trung bình gồm Angiêri, Ai Cập, Inđônêxia, Gioócđani, Cadắcxtan, Mêhicô, Marốc, Philíppin, Nam Phi, Thái Lan, Tuynidi, Thổ Nhĩ Kỳ, Ucraina và Việt Nam đầu tư xây dựng các nguồn năng lượng tái sinh quy mô lớn với tổng tài trợ lên tới 4,5 tỷ USD.

Chương trình thúc đẩy năng lượng tái sinh ở các nước thu nhập thấp (SREP) cam kết đầu tư hỗ trợ các dự án năng lượng tái sinh ở 6 nước thu nhập thấp là Êtiôpia, Ônđurát, Kênia, Manđivơ, Mali và Nêpan.

Mafalda Duarte, chuyên gia về biến đổi khí hậu của AfDB nhấn mạnh 70% dân số khu vực Cận Sahara châu Phi hiện chưa được tiếp cận các dịch vụ năng lượng cơ bản như điện. Các dự án được tài trợ phát triển năng lượng tái sinh nhằm 2 mục tiêu, đó là vừa phát triển các nguồn năng lượng bền vững để đáp ứng nhu cầu khát năng lượng của các nước này vừa đi đầu định hình bản đồ năng lượng sạch toàn cầu.

Tổng cộng hiện đã có 45 nước đang phát triển được hỗ trợ tài chính của CIF trong các chương trình phát triển năng lượng tái sinh và công nghệ sạch thông minh về khí hậu.  

Theo Việt Báo


Giải Nobel kinh tế, tên chính thức là Giải thưởng của Ngân hàng Thụy Điển cho khoa học kinh tế để tưởng nhớ Nobel (tiếng Thụy Điển: Sveriges riksbanks pris i ekonomisk vetenskap till Alfred Nobels minne) là giải thưởng dành cho những nhân vật có đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực kinh tế học. Giải này được thừa nhận rộng rãi là giải thưởng danh giá nhất trong ngành khoa học này.

Giải Nobel kinh tế không phải là một trong năm giải Nobel đặt ra theo nguyện vọng của Alfred Nobel năm 1895. Giải này, như tên gọi chính thức của nó thể hiện, là giải thưởng do Ngân hàng Thụy Điển đặt ra và tài trợ bắt đầu từ năm 1968 để kỷ niệm 300 năm thành lập ngân hàng và cũng để tưởng niệm Nobel. Giống như những người đoạt giải Nobel trong khoa học hóa học và vật lý, những người đoạt giải Nobel kinh tế là do Viện hàn lâm khoa học hoàng gia Thụy Điển bầu chọn.

Những người đoạt giải Nobel kinh tế đầu tiên là nhà kinh tế học người Hà Lan Jan Tinbergen và người Na Uy Ragnar Frisch vào năm 1969 "do đã phát triển và ứng dụng các mô hình động và phân tích các tiến trình kinh tế".

Tiền thưởng kèm theo Giải Nobel kinh tế cùng các khoản chi phí liên quan do Ngân hàng Thụy Điển tài trợ vào Quỹ Nobel. Từ năm 2001, tiền thưởng kèm theo giải là 10 triệu krona (vào khoảng 1,6 triệu dollar Mỹ tại thời điểm tháng 1 năm 2008), ngang với số tiền thưởng kèm theo của các giải Nobel khác. Từ năm 2006, Ngân hàng Thụy Điển mỗi năm tài trợ cho Quỹ Nobel 6,5 triệu krona (khoảng 1 triệu dollar tại thời điểm tháng 1 năm 2008) để chi cho các việc hành chính liên quan tới giải và 1 triệu krona nữa (đến cuối năm 2008) để đưa thông tin về giải lên bảo tàng internet của Quỹ.

Đây là danh sách những người đạt giải Nobel kinh tế được trao tặng từ năm 1969 đến nay xếp theo thứ tự ưu tiên thời điểm mới nhất.


Năm Tên Công trình
2010 Dale T. Mortensen (Hoa Kỳ)
Peter A. Diamond (Hoa Kỳ)
Christopher A. Pissarides (Anh, Síp Hy Lạp)
phân tích thị trường dựa trên lý thuyết tìm và khớp
2009 Elinor Ostrom (Hoa Kỳ)
Oliver Williamson (Hoa Kỳ)
phân tích quản trị kinh tế
2008 Paul Krugman (Hoa Kỳ) đóng góp vào lý thuyết gắn kết hoạt động thương mại quốc tế với địa kinh tế.
2007 Leonid Hurwicz (Hoa Kỳ)
Eric Maskin (Hoa Kỳ)
Roger Myerson (Hoa Kỳ)
đóng góp vào "lý thuyết thiết kế cơ chế"
2006 Edmund S. Phelps (Hoa Kỳ) giải thích quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
2005 Robert J. Aumann (Israel-Hoa Kỳ-Đức)
Thomas C. Schelling (Hoa Kỳ)
giải thích nguồn gốc sự xung đột và sự hợp tác thông qua việc phân tích "Lý thuyết trò chơi"
2004 Finn E. Kydland (Na Uy)
Edward C. Prescott (Hoa Kỳ)
đóng góp cho ngành kinh tế học vĩ mô động
2003 Robert F. Engle III (Hoa Kỳ)
Clive W.J. Granger (Anh)
các phương pháp phân tích số liệu kinh tế theo chuỗi thời gian ARCH và đồng hợp nhất
2002 Daniel Kahneman ([Hoa Kỳ - Israel)
Vernon L. Smith (Hoa Kỳ)
Kahneman đưa những hiểu biết về tâm lý học vào kinh tế, Smith đặt nền móng cho lĩnh vực kinh tế thực nghiệm
2001 George A. Akerlof (Hoa Kỳ)
A. Michael Spence (Hoa Kỳ)
Joseph E. Stiglitz (Hoa Kỳ)
ảnh hưởng của việc kiểm soát thông tin đến thị trường
2000 James J. Heckman (Hoa Kỳ)
Daniel L. McFadden (Hoa Kỳ)
các lý thuyết và phương pháp phân tích các mẫu chọn lọc và sự lựa chọn riêng lẻ
1999 Robert A. Mundell (Canada) Những phân tích mới về tỷ giá hối đoái
1998 Amartya Sen (Ấn Độ) Giải thích cơ cấu kinh tế ẩn dưới nạn đói và nạn nghèo
1997 Robert C. Merton (Hoa Kỳ)
Myron S. Scholes (Hoa Kỳ-Canada)
Phát triển công thức đánh giá các lựa chọn chứng khoán
1996 James A. Mirrlees (Anh)
William Vickrey (Hoa Kỳ-Canada)
Lý thuyết động cơ kinh tế theo thông tin phi đối xứng
1995 Robert E. Lucas Jr. (Hoa Kỳ) Phát triển và ứng dụng giả thuyết về dự tính duy lý
1994 John C. Harsanyi (Hoa Kỳ-Hungary)
John F. Nash Jr. (Hoa Kỳ)
Reinhard Selten (Đức)
Đặt nền tảng cho lý luận về phân tích cân bằng trò chơi phi hợp tác
1993 Robert W. Fogel (Hoa Kỳ)
Douglass C. North (Hoa Kỳ)
Làm thay đổi hoàn toàn phương pháp nghiên cứu sử kinh tế bằng cách áp dụng phương pháp kinh tế lượng
1992 Gary S. Becker (Hoa Kỳ) Ứng dụng kinh tế học vi mô vào phân tích hành vi của con người, nguồn nhân lực
1991 Ronald H. Coase (Vương quốc Anh) Phát hiện và làm rõ vai trò của chi phí giao dịch và quyền sở hữu đối với cơ cấu và chức năng kinh tế từ góc độ thể chế
1990 Harry M. Markowitz (Hoa Kỳ)
Merton H. Miller (Hoa Kỳ)
William F. Sharpe (Hoa Kỳ)
Xây dựng lý luận chung để nâng cao tính an toàn cho cơ cấu tài sản
1989 Trygve Haavelmo (Na Uy) Phát triển phương pháp xác suất trong kinh tế lượng, số nhân ngân sách cân bằng
1988 Maurice Allais (Pháp) Những đóng góp mang tính quyết định vào lý luận liên quan đến sử dụng hiệu quả các nguồn lực và thị trường
1987 Robert M. Solow (Hoa Kỳ) Những cống hiến cho lý luận về tăng trưởng kinh tế
1986 James M. Buchanan Jr. (Hoa Kỳ) Xây dựng nền tảng về mặt hiến pháp và hợp đồng cho lý luận lựa chọn công cộng
1985 Franco Modigliani (Hoa Kỳ gốc Ý) Phân tích thị trường tài chính, tiết kiệm
1984 Richard Stone (Vương quốc Anh) Cải tiến đáng kể cơ sở phân tích thực chứng, đóng góp cơ bản vào cải tiến hệ thống tài khoản quốc gia
1983 Gerard Debreu (Pháp) Gây dựng phương pháp phân tích mới cho lý luận kinh tế học, cải tiến triệt để lý luận cân bằng tổng thể
1982 George J. Stigler (Hoa Kỳ) Những đóng góp về nguyên nhân và tác động của các quy chế, vai trò của thị trường và cơ cấu ngành
1981 James Tobin (Hoa Kỳ) Những phân tích về thị trường tài chính, giá cả, việc làm, sản xuất
1980 Lawrence R. Klein (Hoa Kỳ) Đã phát triển các mô hình và phương pháp kinh tế cho việc phân tích chu kỳ kinh tế và chính sách kinh tế
1979 Theodore W. Schultz (Hoa Kỳ)
Arthur Lewis (Anh)
Tiên phong trong nghiên cứu về lý luận phát triển kinh tế với những lưu ý đặc biệt đến các vấn đề ở những nền kinh tế đang phát triển
1978 Herbert A. Simon (Hoa Kỳ) Tiên phong trong nghiên cứu về quá trình ra quyết định của các chủ thể kinh tế
1977 Bertil Ohlin (Thụy Điển)
James E. Meade (Anh)
Đóng góp đột phá vào lý luận thương mại quốc tế và di chuyển vốn quốc tế
1976 Milton Friedman (Hoa Kỳ) Đóng góp vào phân tích tiêu dùng, lịch sử và lý luận tiền tệ, giải thích sự phức tạp của các chính sách ổn định kinh tế
1975 Leonid Vitaliyevich Kantorovich (Liên Xô)
Tjalling C. Koopmans (Hoa Kỳ)
Đóng góp lớn lao vào lý luận phân bổ tối ưu nguồn lực kinh tế
1974 Gunnar Myrdal (Thụy Điển)
Friedrich August von Hayek (Anh)
Tiên phong trong lý luận về tiền tệ và chu kỳ kinh tế, phát triển phương pháp phân tích các hiện tượng kinh tế, xã hội, thể chế trong mối quan hệ giữa chúng với nhau
1973 Wassily Leontief (Hoa Kỳ) Phát triển phương pháp đầu vào-đầu ra và ứng dụng nó cho những vấn đề kinh tế quan trọng
1972 John R. Hicks (Anh)
Kenneth J. Arrow (Hoa Kỳ)
Những đóng góp mang tính tiên phong vào lý luận cân bằng kinh tế tổng thể và phúc lợi kinh tế
1971 Simon Kuznets (Hoa Kỳ) Xây dựng nền tảng thực nghiệm về lý luận tăng trưởng kinh tế cho phép quan sát các cơ cấu kinh tế và xã hội, quan sát quá trình phát triển bằng phương pháp mới và sâu sắc hơn
1970 Paul A. Samuelson (Hoa Kỳ) Phát triển các lý luận kinh tế tĩnh và động, nâng phân tích kinh tế lên một tầm cao mới
1969 Ragnar Frisch (Na Uy)
Jan Tinbergen (Hà Lan)
Phát triển và ứng dụng các mô hình động và phân tích các tiến trình kinh tế

Theo kiwipedia.org

Kinh tế học : Danh sách cá nhân đạt giải Nobel Kinh tế


Kinh tế học : Quy luật King và sự can thiệp của chính phủ

Hình ảnh từ: http://t1.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcSFy
iHpRYpN3l5IJtYGAK8madjRyVEPUdlHOFZMwgZODhdYGzSN

Quy luật King
 Gregory King (1684-1712), người Anh đã phát hiện quy luật: “Đối với đa phần sản phẩm nông nghiệp, cầu nói chung thuộc loại không co giãn theo giá, do đó những vụ mùa bội thu dẫn đến sự sụt giảm tổng thu nhập của nông dân... nếu thiếu chính sách can thiệp của chính phủ”.

Sự can thiệp của chính phủ vào thị trường nông sản
Chính sách ổn định giá là cần thiết nhưng cũng là vấn đề không phải dễ gì giải quyết. Ở đây chúng ta sẽ đề cập đến những kinh nghiệm được áp dụng thành công trong nhiều nước.

(i)  Chương trình mua nông sản của chính phủ để bình ổn giá
Trong thời điểm thu hoạch, chính phủ tham gia mua nông sản trên thị trường với khối lượng tương đương với lượng thặng dư trên thị trường (Q1-Q0). Như vậy, giá sẽ không sụt giảm và tổng thu nhập vẫn tăng theo khối lượng cung tăng. Lượng nông sản mua được đưa vào kho dự trữ quốc gia. Nếu năm sau mất mùa, chính phủ sẽ bán ra thị trường  để bình ổn giá. Giải pháp này hữu hiệu khi tình huống trong nông nghiệp diễn ra theo hướng năm trúng mùa rồi năm thất màu. Tuy nhiên trên thực tế, nếu nhiều năm trúng màu liên tiếp, chính phủ phải tốn kém số lượng tiền rất lớn của ngân sách nhưng không bán được. Do đó, giải pháp này khó thực hiện trên thực tế.

(ii)   Bài học kinh nghiệm của chính phủ Nhật
Chính phủ vẫn tham gia mua nông sản trên thị trường. Tuy nhiên, chính phủ chỉ mua nông sản với chất lượng cao. Cách làm này có tác dụng lên 2 mặt: bất kể năm nào trúng hay thất mùa, chính phủ cũng có thể bván ra trên thị trường có thu nhập cao (dễ tiêu thụ). Như vậy, có thể thu hồi lại vốn và không ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách.
Nông dân sẽ phải điều chỉnh lại cung sản xuất theo hướng chuyển dịch sang nông sản có chất lượng cao.

(iii)   Bài học kinh nghiệm của chính phủ Thailand
(a) Khuyến khích nông dân sản xuất nông sản chất lượng cao và xuất khẩu bằng chính sách hỗ trợ tín dụng cho nông dân thực hiện việc chuyển dịch.
(b) Trong thời điểm thu hoạch, chính phủ cung cấp tín dụng với kỳ hạn 6 tháng (số tiền tương ứng với 80% giá trị lúa mà nông dân sản xuất) và chính phủ hỗ trợ 50% chi phí lãi suất nhằm giúp nông dân tăng khả năng dự trữ.
(c) Chính phủ khuyến khích các tổ chức kinh tế khác tham gia xuất khẩu thông qua:
(d) Giảm thuế xuất khẩu, cấp tín dụng ưu đãi cho các nhà xuất khẩu (6 tháng)
(e) Phân phối quota cho các nhà xuất khẩu theo hướng:
1.     Xây dựng kho chứa
2.     Quy mô quota được xác định theo quy mô kho chứa của nhà xuất khẩu

Chương trình giảng dạy của trường Fulbright ở TP. Hồ Chí Minh 


Thành lập từ năm 1994, Trường Fulbright là kết quả hợp tác giữa Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh và Trường Harvard Kennedy. Ngân sách hoạt động chính của chương trình do Vụ Văn hóa và Giáo dục, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tài trợ. Đây là một tổ chức giáo dục của Việt Nam với sự tham gia của các đối tác quốc tế. Trường hoạt động theo những nguyên tắc quản trị làm tiền đề cho sự ưu việt, đó là tính tự chủ, chân giá trị, trách nhiệm giải trình và chuẩn mực cao.
Sứ mệnh của Trường Fulbright là hình thành, truyền thụ và phổ biến kiến thức. Đội ngũ giảng viên Việt Nam và quốc tế của Trường vừa hiểu biết sâu sắc về Việt Nam vừa kết nối sự hiểu biết này với các xu thế toàn cầu và khu vực. Hiện nay, dự án kiến tạo tri thức này đang hỗ trợ cho ba sáng kiến trọng tâm. Giảng dạy, gồm chương trình Thạc sĩ Chính sách công và đào tạo ngắn hạn cao cấp; nghiên cứu, nhắm đến những vấn đề chính sách phức tạp mà Việt Nam đang đối mặt; và đối thoại chính sách, thông qua thảo luận với các nhà hoạch định chính sách Việt Nam và tham gia trao đổi về chính sách công ở Việt Nam.
Tất cả tài liệu sử dụng trong giảng dạy đều được chúng tôi cung cấp cho sinh viên và giảng viên trên cả nước và thế giới thông qua sáng kiến Học Liệu Mở FETP hay FETP OpenCourseWare. Trường Fulbright luôn nỗ lực duy trì và phát huy môi trường học tập năng động, nơi học viên và giảng viên là tâm điểm của việc hướng đến những chuẩn mực cao nhất của sự nghiệp tiếp thu và ứng dụng tri thức.
Thông qua Quỹ Rajawali Institute dành cho châu Á của Trường Harvard Kennedy, Trường Fulbright được liên kết với Trung tâm Ash, một tổ chức hàng đầu về nghiên cứu và thúc đẩy hoạt động đổi mới cách tân trong chính phủ và lãnh đạo công. Các giảng viên của chúng tôi dựa vào những nghiên cứu chính sách mới nhất và mạng lưới lãnh đạo toàn cầu của Trung tâm Ash để đưa ra những kinh nghiệm so sánh với các vấn đề chính sách của Việt Nam.
Theo fetp.edu.vn


Kinh tế học : Ngoại tác là gì?


Ngoại tác xuất hiện khi sản xuất hay tiêu dùng của cá nhân (nhóm các cá nhân) ảnh hưởng đến sản xuất hoặc tiêu dùng của cá nhân (nhóm các cá nhân) khác và không có sự đền bù hay thanh toán nào được thực hiện bởi cá nhân gây ảnh hưởng. Kết quả này tồn tại ngoài giao dịch thị trường và có thể là một lợi ích bên ngoài hay chi phí bên ngoài (ngoại phí). Trong các trường hợp này, ngoại tác làm biến đổi lợi ích ròng xã hội.

Các ngoại phí và mưa axít
“Cuộc sống dưới bầu trời axít
Trẻ con lại dụi mắt ở trường công lập Port Kembla.
Mọi người đang chùi rửa các vết bẩn màu nâu, mái nhà bị ăn mòn và đám cà chua rồi sẽ chết...
Một cụ bà 72 tuổi là cư dân ở cảng từ năm 1927, gia đình bà luôn luôn giữ trẻ con bên trong nhà vào những ngày trời khói mù mịt, nói rằng bà đã không thể nhớ lại bất cứ điều gì hơn những hạt bụi đã rơi xuống vào những tuần gần đây. Bà cụ đã chịu đựng các đám mây độc hại, và run lên bần bật do không khí ô nhiễm đang diễn ra. Lúc chăm sóc một em bé với da đầu bị viêm, bà chỉ dấu màu đỏ trên đôi tay của mình. Bà nói các hạt bụi rớt xuống trên cánh tay và khi bà phủi nó thì da bị đỏ tấy lên...
...Cách mạng công nghiệp vẫn đang diễn ra và tốt cho những người theo phái khắc kỷ ôn hòa ở Port Kembla khi họ ho và tìm con đường đi của họ xuyên qua một trận mưa bẩn như trút nữa.”
Thời báo Sun – Herald, 8.11.1992, tr.11

Theo Trần Võ Hùng Sơn (2003), Nhập môn phân tích lợi ích - chi phí,
Nhà xuất bản ĐH Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

Trường THPT Nguyễn Văn Trỗi : Kỹ năng Mềm (Soft Skills) là gì?

titleTrong thời đại hội nhập, sự thành đạt của mỗi cá nhân không chỉ được đánh giá bởi “Kỹ năng Cứng” như hàng loạt các bằng cấp, hay số lượng lớn các kinh nghiệm có giá trị và những mỗi quan hệ tốt; mà Sự thành đạt còn được đánh giá qua “Kỹ năng Mềm” của mỗi người.
Trên thực tế, người thành đạt chỉ có 25%  do những kiến thức chuyên môn họ được học, 75% còn lại được quyết định bởi các Kỹ năng Mềm họ được trang bị.

1. Kỹ năng mềm là gì?
Kỹ năng Mềm (Soft Skills) chủ yếu là những kỹ năng thuộc về tính cách con người, không mang tính chuyên môn, không phải là kỹ năng cá tính đặc biệt. Chúng thuộc về cách sống, cách tích lũy kinh nghiệm từ cuộc sống… Kỹ năng Mềm quyết định khả năng bạn có thể trở thành nhà lãnh đạo, thính giả, nhà thương thuyết hay người hòa giải xung đột… Kỹ năng mềm được hiểu là khả năng thích ứng với môi trường làm việc, giải quyết khủng hoảng, xây dựng niềm tin, làm việc nhóm, tinh thần sáng tạo, học hỏi, tiếp cận cái mới, thiết lập quan hệ...

2. Phân biệt Kỹ năng Mềm và Kỹ năng Cứng:
Kỹ năng Cứng (Hard Skills) là cách gọi để chỉ Chuyên môn cụ thể như Trình độ, Kiến thức hay Bằng cấp và các Chứng chỉ. Kỹ năng này được đào tạo bởi hệ thống các trường học từ thấp đến cao và bởi các trung tâm Đào tạo Chuyên ngành…
Ngược lại, Kỹ năng Mềm là nhân tố để đánh giá con người như lòng nhiệt huyết, tính dễ chịu, khả năng làm việc hiệu quả… Thực tế, nhiều người không học Kỹ năng Mềm nhưng vẫn khéo léo trong ứng xử và giao tiếp. Đó là khi chúng ta trải qua quá trình cọ xát với công việc và môi trường sống, mỗi lần va vấp là mỗi lần học thêm được kỹ năng sống.
Sự phát triển của khoa học và truyền thông đã giúp con người có thêm kiến thức từ sách vở, báo chí, internet. Các cuốn sách, các bài báo chia sẻ kinh nghiệm thành công từ những người đi trước là thông tin hữu ích để chúng ta có thể tham khảo và ứng dụng. Kỹ năng Mềm xuất hiện ở mọi nơi, trong gia đình, trường học, môi trường làm việc... Quan trọng là chúng ta biết đón nhận, sàng lọc và biết tìm ra cái nào phù hợp với cá tính của mình để phát huy. Nó sẽ trở thành kỹ năng của riêng bạn.

3. Tầm quan trọng của Kỹ năng Mềm:
“Việc đào tạo kỹ năng mềm cho HS, SV ở các trường ĐH, THPT ở VN hiện nay còn rất hạn chế, phần nhiều chỉ trên góc độ lý thuyết. Các khóa học kỹ năng tạo cho các bạn trẻ một phong cách tự tin, vững vàng trong giao tiếp, ăn nói hoạt bát, suy nghĩ logic, giúp bạn giải quyết mọi công việc trong cuộc sống được nhanh nhạy hơn. Đây không chỉ là những kỹ năng cần thiết cho cuộc sống mà còn là các kỹ năng được các nhà tuyển dụng rất quan tâm bởi chúng ảnh hưởng rất lớn đến việc bạn trẻ có hòa nhập được với môi trường làm việc và đạt hiệu quả cao trong công việc hay không”.
Theo Báo Thanh niên

 Với nhịp độ phát triển của đất nước, để hội nhập, thế hệ trẻ cũng như những người đã có kinh nghiệm lâu năm trong mọi loại hình công việc cũng như ở nhiều vị trí công tác khác nhau như cán bộ, nhân viên, nhà quản lý – lãnh đạo, thương nhân… đều quan tâm nhiều đến Kỹ năng Mềm. Nó biểu hiện năng lực của mỗi con người trong cuộc sống và trong sự nghiệp, đồng thời làm nên hình ảnh “Nhân hiệu” cho sự thành đạt.

 Các tổ chức, các doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại khi nguyên khí của họ là những nhân sự tốt. Thương hiệu của mỗi tổ chức, doanh nghiệp được đánh giá bằng sự chuyên nghiệp của mỗi cá nhân trong tập thể. Do đó, các nhà tuyển dụng ngày nay đã thực tế lại càng thực tế hơn rất nhiều. Họ không chỉ muốn thu nhận người biết làm công việc chuyên môn, mà còn phải có khả năng sáng tạo, biết giải quyết các phát sinh trong công việc, phối hợp hiệu quả với đồng nghiệp, có tư duy tích cực và muốn thăng tiến cao hơn. Kỹ năng Mềm được khẳng định là công cụ hữu hiệu nhất cho thước đo thành công trong nghề nghiệp của mỗi người cũng đồng thời tương đương với nhận định chính xác về khả năng nhận thức và kinh nghiệm làm việc.  

Thông qua việc thường xuyên đào tạo và tái đào tạo Kỹ năng Mềm, các nhà quản lý và những người làm công tác nhân sự có thể nâng cao hiệu quả công việc của cán bộ. Khi hội nhập toàn cầu, vũ khí cạnh tranh lớn nhất không gì khác ngoài tài sản vô hình là năng lực làm việc của hệ thống nhân viên. Hiện nay, không chỉ các công ty liên doanh hay nước ngoài mà các công ty trong nước cũng đang dấy phong trào đào tạo cho nhân viên những Kỹ năng khác nhau như: Quản lý - Lãnh đạo, Giao tiếp - Ứng xử, Chăm sóc Khách hàng, Làm việc Nhóm, Văn hoá Tổ chức, Giải quyết Vấn đề, Kỹ năng Thuyết trình, Kỹ năng Lắng nghe, Tổ chức Công việc, Quản lý Thời gian...           
Theo Nhật Quang – MEC Việt Nam

Việt Nam là hình mẫu về sản xuất lúa gạo
Đó là ý kiến của nhiều đại biểu quốc tế tại Hội nghị lúa gạo quốc tế (IRC) với chủ đề “Lúa gạo cho những thế hệ tương lai”, do Bộ NN&PTNT, Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) phối hợp tổ chức khai mạc ngày 9-11 tại Hà Nội.


Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, hiện nay, sản lượng lúa chiếm trên 90% sản lượng của các cây lương thực có hạt, liên quan đến việc làm và thu nhập của khoảng 80% số hộ nông dân Việt Nam. Trong hơn 20 năm qua, năng suất và sản lượng lúa đã tăng gấp khoảng 2 lần, hiện nay năng suất bình quân đạt 5,3 tấn/ha một vụ; riêng vụ đông xuân, nhiều nơi ở ĐBSCL và đồng bằng sông Hồng đã đạt 7 tấn/ha”.

Thủ tướng tự hào nói: “Việt Nam từ một nước nhiều năm thiếu lương thực trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 của thế giới. Trong 22 năm qua, Việt Nam đã xuất khẩu trên 75 triệu tấn gạo, trị giá 23 tỷ USD”.

Tuy nhiên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ lo âu là sản xuất lương thực của Việt Nam, trong đó có lúa gạo, vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn thách thức, nhất là trong bối cảnh dân số tăng nhanh, đất nông nghiệp ngày càng suy giảm, nguồn nước hạn chế, thiên tai, dịch bệnh xảy ra với tần suất ngày càng cao và khốc liệt hơn. Do đó, Việt Nam cũng mong tiếp tục nhận được sự hợp tác giúp đỡ to lớn hơn nữa của các quốc gia, các tổ chức quốc tế trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung và phát triển lúa gạo của Việt Nam nói riêng.

“Giúp Việt Nam phát triển sản xuất lúa gạo hiệu quả bền vững cũng chính là góp phần bảo đảm an ninh lương thực thế giới vì hiện nay xuất khẩu gạo của Việt Nam chiếm 1/5 lượng gạo xuất khẩu của thế giới” - Thủ tướng nêu rõ.

IRC là sự kiện lớn nhất thế giới về ngành lúa gạo, diễn ra 4 năm một lần. IRC năm nay có sự tham gia của hơn 1.000 đại biểu là các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, chuyên gia công nghệ, doanh nghiệp, nông dân, nhà hoạch định chính sách… lớn nhất thế giới về ngành lúa gạo.

Ngày làm việc hôm qua, các đại biểu đã được nghe phát biểu và tham luận của các ông Robert Zeigler - Tổng Giám đốc IRRI, ông Kanayo F. Nwanze- Chủ tịch Quỹ Phát triển nông nghiệp Quốc tế (IFAD).

Trong đó, ông Kanayo F.Nwanze cho rằng: “Việt Nam là hình mẫu cho các nước về sản xuất lúa gạo. Bởi, từ một nước thiếu lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu lương thực, góp phần quan trọng vào đảm bảo an ninh lương thực thế giới. Tôi mong muốn N tăng cường hợp tác hơn nữa với IFAD trong đầu tư phát triển lâu dài nông nghiệp và nông thôn và IFAD sẽ tiếp tục đầu tư cho các dự án phát triển nông nghiệp tại Việt Nam”.

Theo Dân Việt - tinkinhte.com

Trong tiếng Anh, từ "like" rất linh hoạt và có rất nhiều cách sử dụng. Bạn có phân biệt được ý của từ "like" khi chúng được sử dụng trong nhiều loại câu hỏi khác nhau không?


Hãy làm bài tập điền câu trả lời cho câu hỏi dưới đây. Bạn nhớ chỉ điền chữ cái a, b, c, d,... chứ không viết lại toàn bộ câu trả lời vào chỗ trống nhé.

a - Much better, the operation was a success.
b - Playing cricket, rugby and girls.
c - No, he’s usually very easy-going.
d - A hamburger, please.
e - Great. They enjoyed their time there.
f - It’s a beautiful painting of a sunset.
g - She’s a stunner.
h - Very nice. A day for the beach, I’d say.
i - Both sweet and sour. I like it.
j - He’s about 6.9 m tall. Very cute.

  • 1 - What does Arthur look like?

  • 2 - What does Marc-Lee like?

  • 3 - What would you like?

  • 4 - How is Marcio?

  • 5 - What’s Nasreen like?

  • 6 - What was it like?

  • 7 - What does it look like?

  • 8 - What’s the weather like?

  • 9 - What’s it like?

  • 10 - Is he always like this?





Nguồn từ MEC Việt Nam

Cách sử dụng khác nhau của từ 'like'

Mark Zuckerberg - CEO của Facebook

Facebook là trang mạng xã hội lớn nhất và phổ biến nhất hiện nay với số người dùng ước tính khoảng nửa tỉ người. Nó được sáng lập bởi một chàng sinh viên trẻ theo học trường Đại học Harvard mang tên Mark Zuckerberg (hiện là CEO của Facebook). Trong những năm gần đây, Facebook đã phát triển rất mạnh mẽ để trở thành trang mạng xã hội được nhiều người dùng nhất, thậm chí gần đây thì giá trị của công ty vốn còn non trẻ này đã vượt qua nhiều công ty khác đạt 33 tỉ USD (theo số liệu của Finance Times) còn Mark Zuckerberg thì vươn lên trở thành người giàu có hơn cả Steve Jobs, CEO của Apple. Zuckerberg còn rất trẻ (26 tuổi) và đã thành công với Facebook, dưới đây là một số bí mật về chàng thanh niên "của mạng xã hội" này.

Để giúp người xem có một cái nhìn chi tiết hơn về đời sống và công việc của Zuckerberg, sắp tới sẽ có một bộ phim về chàng thanh niên này được sản xuất mang tên The Social Network (tạm dịch: mạng xã hội). Bộ phim này chủ yếu sẽ xoay quanh cuộc sống cũng như những câu chuyện về Zuckerberg, nó sẽ được trình chiếu vào ngày 1 tháng 10 tới.

Zuckerberg ngoài đời thường.

Mục đích của Zuckerberg khi sáng lập ra Facebook chính là muốn mang tới một thế giới mở và tốt đẹp cho mọi người, nơi mà họ có thể chia sẻ mọi thứ với những người bạn trên toàn thế giới. Dù thế nhưng Zuckerberg ngoài đời thường hoàn toàn trái ngược với mục đích của anh khi tạo ra Facebook. Tờ The New Yorker đã viết, CEO của dịch vụ mạng xã hội lớn nhất thế giới khá nhút nhát và sống khép kín.

"Anh ấy không thích các cuộc trò chuyện với báo giới và nếu có thì thường rất ít, anh ấy cũng cố gắng tránh những lần xuất hiện trước công chúng". The New Yorker cho biết thêm.

Sở thích của Zuckerberg rất kỳ quái.

Những sở thích cá nhân mà Zuckerberg liệt kê trên tài khoản Facebook của mình thường rất kỳ quái và khác người. Anh thích trường phái tối giản, thích phớt lờ các lời đề nghị, thích làm một cái gì đó rồi phá nó đi, thích cách mạng và cởi mở, thẳng thắn, chân thật.

Về âm nhạc, anh thích nhạc của Daft Punk và Lady Gaga. Chương trình TV "The West Wing" là chương trình anh thích nhất, đáng chú ý nó được đạo diễn bởi Aaron Sorkin, người viết kịch bản cho bộ phim The Social Network về Zuckerberg.

Thích trường phái cổ điển.

Zuckerberg sinh ra và lớn lên tại vùng Dobbs Ferry thuộc thành phố New York, sau đó tốt nghiệp cấp 3 tại trường Philips Exeter Academy. Tại đây, anh đã học tiếng Latin và trở thành một con người yêu trường phái cổ điển. Sau đó Zuckerberg theo học trường Đại học danh tiếng Harvard (học được hai năm rồi bỏ và sáng lập ra Facebook), anh được biết đến nhiều với khả năng thuật lại những bài thơ hay sử thi như "The Illiad".

Zuckerberg còn viết cả những trò chơi với chủ đề cổ điển, trường phái yêu thích của anh. Trò chơi đầu tiên mà anh viết lấy bối cảnh chính là một phòng khách cổ điển.

Những tên gọi khác của Zuckerberg.

Bạn bè cũng như đồng nghiệp hay gọi anh với cái tên thân mật và ngắn gọn là Zuck. Đó là cách gọi của bạn bè còn với những người trong gia đình thì lại khác, tờ Wall Street Journal cho rằng mẹ anh ta gọi anh với cái tên là "Princely" khi còn trẻ. Còn tại Harvard, bạn bè thường gọi là "Slayer".

Tại sao Facebook có màu chủ đạo là xanh dương?


Từ thiết kế logo cho tới giao diện chính của trang Facebook.com đều là màu xanh dương khá đơn điệu. Liệu có phải Zuckerberg thích màu sắc này? Không hẳn vậy, anh là người mù màu đỏ - xanh lá, vì vậy màu sắc mà anh nhìn tốt nhất là màu xanh dương. Đó là lý do Facebook có màu chủ đạo là xanh dương.

Tiền không quá quan trọng với Zuckerberg.

Dù đã có rất nhiều tiền, thậm chí vượt qua cả Steve Jobs của Apple nhưng Zuckerberg chia sẻ anh không quan tâm nhiều lắm tới tiền. Bằng chứng là khi được hỏi mua Facebook với giá 1 tỉ USD, anh này đã thẳng thừng từ chối lời đề nghị.
Khi được hỏi tại sao lại không bán Facebook với giá khổng lồ đó, Zuckerberg cho rằng nó (Facebook) không dành để bán, nó như là một đứa con của tôi, tôi muốn được tiếp tục "chăm sóc" và "nuôi dưỡng" nó trưởng thành.

Nguồn vietcntt.com - lấy từ CNN

Kinh tế học : Nghịch lý về giá trị (paradox of value)
Hơn hai thế kỉ trước đây, trong tác phẩm Sự giàu có của các quốc gia, Adam Smith đã đưa ra nghịch lý về giá trị (paradox of value). Ông viết, “Không có gì hữu hình bằng nước; nhưng nó chẳng làm giảm lượng mua sắm của bất kì thứ gì, trái lại, kim cương có rất ít giá trị sử dụng; nhưng phải mất một lượng lớn nhiều hàng hóa khác mới may ra đổi được lấy nó”.
Nói cách khác, tại sao một thứ rất cần thiết cho cuộc sống như nước lại có rất ít giá trị, trong khi, kim cương vốn thường chỉ được dùng làm đồ trang sức lại đòi một mức giá quá đáng như vậy?

Nghịch lý này đã làm bận lòng Adam Smith 200 năm trước đây. Ngày nay, chúng ta biết cách giải quyết nghịch lý đó như sau: đường cung và cầu đối với nước cắt nhau ở mức giá rất thấp, trong khi cung và cầu về kim cương lại có mức giá cân bằng rất cao. Trả lời như vậy xong, tất nhiên lại đi đến một câu hỏi khác: “Nhưng tại sao cung và cầu về nước lại cắt nhau ở mức giá thấp đến thế?” Câu trả lời là kim cương là một thứ rất khan hiếm và chi phí để tìm thêm một mẫu kim cương nữa rất cao, trong khi nước tương đối phong phú hơn và ở nhiều nơi trên thế giới, nó chỉ tốn rất ít tiền.

Nhưng câu trả lời này về việc hình thành chi phí phù hợp vẫn chưa giải đáp được một sự thật không kém phần quan trọng, đó là, nước trên thế giới rõ ràng hữu ích hơn nhiều so với nguồn cung về kim cương của thế giới. Để giải quyết điều đó, khi xét đến chi phí, chúng ta phải tính đến một sự thật thứ hai: xét về tổng thể, độ thỏa dụng (còn được gọi là độ hữu dụng Utility) của nước không quyết định đến giá hoặc cầu về nó. Trái lại, giá của nước do độ thỏa dụng biên (Marginal Utility) của nó, tức là độ hữu ích của cốc nước cuối cùng, quyết định.

Vì có quá nhiều nước, cốc nước cuối cùng có giá rất thấp. Mặc dù những giọt nước đầu tiên đáng giá cả cuộc sống, những giọt nước cuối cùng lại chỉ dùng để tưới cây cỏ hay rửa xe. Vì thế chúng ta thấy rằng một hàng hóa hết sức quý báu như nước lại có giá trị gần như bằng không vì giá trị của giọt nước cuối cùng gần như bằng không.

Giống như một sinh viên đã phát triển: lý thuyết về giá trị kinh tế rất dễ hiểu nếu bạn chỉ cần nhớ rằng trong kinh tế học cái chi tiết quyết định cái tổng thể. Chính là độ thỏa dụng biên quyết định giá và lượng.

Chúng ta có thể giải quyết nghịch lý về giá trị như sau: một hàng hóa càng có nhiều thì mức độ mong muốn đối với đơn vị cuối cùng của hàng hóa đó càng ít. Vì thế thật rõ ràng là tại sao một lượng lớn nước có giá rất thấp, và tại sao những thứ cần thiết cho sự sống còn, như không khí lại là thứ cho không. Trong cả hai trường hợp, một khối lượng lớn đã đẩy độ thỏa dụng biên xuống rất thấp và do đó, làm giảm giá của những thứ sống còn này.

Theo Paul A Samuelson, Wiliam D. Nordhalls (1948), Kinh tế học, Nhà xuất bản tài chính, tái bản lần 1 (2007)

Author Name

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.