tháng 12 2010

Nghèo là một tình trạng thiếu thốn về nhiều phương diện như: thu nhập thiếu do bị thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu những nhu cầu cơ bản hàng ngày của cuộc sống, thiếu tài sản để tiêu dùng lúc bất trắc xảy ra và dễ bị tổn thương trước những mất mát.

Ảnh lấy từ khatvongsong.vn
 Hội nghị chống nghèo đói khu vực châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan (tháng 9/1993) đã đưa ra định nghĩa như sau: nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương.

Bản thân khái niệm nghèo đói nó cũng bao hàm mức độ nghèo khác nhau, vì trong các nhóm dân cư có người thuộc nhóm nghèo nhưng chưa phải nghèo nhất trong xã hội mà bị rơi vào tình trạng đói kém, do đó, với cách tiếp cận khác nhau về tình trạng thiếu thốn sẽ phân biệt ngưỡng nghèo khác nhau.

Nghèo được nhận diện trên 2 khía cạnh: nghèo đói tuyệt đối (Absolute Poverty) và nghèo đói tương đối (Relative Poverty).

Theo Ts. Đinh Phi Hổ, Ts. Lê Ngọc Uyển, Ths. Lê Thị Thanh Tùng. 2009.
Kinh tế phát triển: Lý thuyết và thực tiễn. Nhà xuất bản Thống Kê. TP. Hồ Chí Minh.

Năm 2010 quả là một năm đầy biến động, nhiều thiên tai và đầy rẫy nguy cơ, nền kinh tế thế giớ chao đảo, ảnh hưởng không nhỏ đến Việt Nam. 10 sự kiện nổi bật sau đây do Tamnhin.net lựa chọn.
1. Khủng hoảng nợ công lây lan ở châu Âu


Tháng 4/2010, các tổ chức xếp hạng tín dụng Standard & Poor’s, Moody’s và Fitch Rating đã hạ bậc trái phiếu chính phủ Hy Lạp xuống các mức rủi ro cao, đồng thời cảnh báo các nhà đầu tư có thể mất 30-50% giá trị các khoản đầu tư trong trường hợp Hy Lạp mất khả năng thanh toán. Liên minh châu Âu (EU) và IMF đã nhất trí dành cho Hy Lạp gói cứu trợ 110 tỷ euro trong thời hạn 3 năm, đồng thời kích hoạt Quỹ bình ổn Eurozone trị giá 750 tỷ euro, nhằm ngăn cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp lây lan sang các nước khác. Sáu tháng sau đó, khủng hoảng nợ Ireland nổ ra với nguy cơ xảy ra hiệu ứng domino trong Khu vực sử dụng đồng Euro. Mặc dù Ireland được cung cấp một gói cứu trợ tài chính trị giá khoảng 85 tỷ euro, nhưng nguy cơ lây lan khủng hoảng nợ vẫn đe dọa châu Âu, đặc biệt Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha.

2. Sự cố tràn dầu ở Vịnh Mexico


Theo số liệu của Chính phủ Mỹ, kể từ khi xảy ra sự cố nổ giàn khoan Deeperwater Horizon ngày 20/4/2010  cho tới khi giếng bị rò rỉ được đóng lại vào ngày 15/7, ước có khoảng 4,9 triệu thùng dầu đã tràn ra Vịnh Mexico, gây thiệt hại nghiêm trọng về môi trường và ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của người dân sinh sống ven Vịnh Mexico. Hiện mới chỉ có khoảng 800 nghìn thùng dầu được dọn và hút vào các tàu chứa. Dầu tràn đã trở thành nguyên nhân gây ra thảm họa sinh thái lớn nhất của Mỹ và  BP có thể sẽ phải bồi thường tới 21,1 tỷ USD cho 4,9 triệu thùng đã bị đổ ra biển.

Hãng BP đã phải bán một loạt tài sản để bồi thường và đã phải chi xấp xỉ 6,1 tỷ USD trong việc giải quyết sự cố tràn dầu trên Vịnh Mexico.

3. Đồng Nhân Dân Tệ trở thành tâm điểm của Trung Quốc


Song hành với sức mạnh kinh tế, Trung Quốc cũng tiến tới việc quốc tế hóa đồng NDT:  20 tỉnh, thành thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế bằng đồng NDT; ký các thoả thuận trao đổi tiền tệ với Hàn Quốc, Hong Kong, Malaysia, Indonesia, Belarus, Argentina và thanh toán mậu dịch song phương với Nga bằng đồng rúp và đồng NDT. Không những thế, Bộ Thương mại Trung Quốc ngày 11/11 tuyên bố nước này đã siết chặt các quy định xuất khẩu đất hiếm, khiến cho Nhật Bản, châu Âu bị điêu đứng và phải tìm cách đa dạng hóa nguồn cung.

4. Giá lương thực tăng vọt do biến đổi khí hậu


“Lũ lụt thế kỷ” ở Pakistan làm hàng triệu người bị biến thành vô gia cư, “hạn hán thế kỷ” và cháy rừng ảnh hưởng tới 1/5 diện tích trồng lúa mì của nước Nga… chính là hậu quả của biến đổi khí hậu  và đẩy giá lương thực thế giới leo cao. Giá lúa mì trên sàn giao dịch Chicago ngày 3/8 đã  tăng 42% và là mức tăng cao nhất trong vòng 50 năm trở lại đây.

Theo Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực Quốc tế (IFPRI), giá lương thực có thể tăng gấp đôi vào năm 2050. Trong giai đoạn từ 2010 - 2050, biến đổi khí hậu sẽ thu hẹp đáng kể diện tích đất nông nghiệp trên thế giới và giảm năng suất cây trồng, nhất là ở các nước đang phát triển. Điều đó sẽ kéo theo giá lương thực tăng vọt: giá ngô có thể tăng 42- 131%, giá gạo tăng 11- 78% và giá lúa mì tăng 17- 67%. Giá cả leo thang chóng mặt có thể đẩy số trẻ em suy dinh dưỡng tăng thêm 20% ( tương đương 25 triệu trẻ em).

5. Nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tiền tệ


  
Lần đầu tiên trong hơn 6 năm qua, Nhật Bản can thiệp vào thị trường hối đoái và là lần can thiệp mạnh tay nhất từ trước tới nay. Ngày 15/9, Nhật Bản đã đơn phương can thiệp vào thị trường tiền tệ nhằm giảm tỷ giá đồng yên/USD, với việc bán ra khoảng 1.000 tỷ yên (trị giá khoảng 20 tỷ USD). Ngày 5/10, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) đã quyết định tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ, bằng cách hạ lãi suất cơ bản từ mức 0,1% hiện nay xuống 0-0,1%. Đây là lần đầu tiên kể từ tháng 12/2008, BoJ hạ tỷ lệ lãi suất. Khoảng 1 tháng sau đó, Ủy ban thị trường mở liên bang (FOMC), cơ quan quyết sách hàng đầu của Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ (FED), ngày 3/11 đã nhất trí bơm 600 tỷ USD vào nền kinh tế nước này. Một loạt nước khác cũng tìm cách can thiệp vào thị trường tiền tệ nhằm hạ giá đồng nội tệ để gia tăng khả năng cạnh tranh và khuyến khích xuất khẩu.

6. Hội nghị thượng đỉnh G20 tại Hàn Quốc: Tăng trưởng đều khắp sau khủng khoảng!
 
  
Trong hai ngày 11 và 12/11, tại Seoul (Hàn Quốc) đã diễn ra Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G20) với chủ đề “Tăng trưởng đều khắp sau khủng hoảng”. Điểm thành công nhất của hội nghị thể hiện qua việc các nước đang phát triển giành được tiếng nói mạnh hơn trong thương lượng quốc tế. Các nhà lãnh đạo G20 ủng hộ việc chuyển 6% quyền bỏ phiếu trong Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) từ các nước phát triển sang các nền kinh tế mới nổi, đồng thời cam kết sẽ hoàn tất việc chuyển giao này thông qua các cuộc họp hàng năm của nhóm. Một kết quả nổi bật nữa của hội nghị là đã đưa được các nội dung phát triển thành trọng tâm của chương trình nghị sự G20, đặc biệt thông qua được Thỏa thuận Seoul về phát triển vì tăng trưởng chung với kế hoạch hành động nhiều năm để cụ thể hóa và thực hiện thỏa thuận này.

7.  APEC 18 tại  Nhật Bản với “Tầm nhìn kinh tế hội nhập”

 
Hội nghị thượng đỉnh APEC lần thứ 18 đã diễn ra ở Yokohama (từ ngày 13 đến 14/11/2010) với chủ đề “Đổi mới và hành động”. Hội nghị đã đề ra tầm nhìn cho hội nhập kinh tế khu vực trong bối cảnh có những thay đổi trong bức tranh kinh tế khu vực và toàn cầu. Trong tuyên bố chung “Tầm nhìn Yokohama”, lãnh đạo các nền kinh tế APEC đã nhất trí cho rằng Khu vực mậu dịch tự do châu Á-Thái Bình Dương (FTAAP) cần được xây dựng trên cơ sở các thỏa thuận mang tính khu vực hiện có như ASEAN+3, ASEAN+6 và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) cùng với các thỏa thuận khu vực khác.

8.   ASEAN 17 tại Hà Nội: Ứng phó với những thách thức toàn cầu

 
 
Từ 28 đến 30/10/2010, tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 17, với chủ đề “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn đến hành động” và những ưu tiên đã đề ra cho năm 2010, Hội nghị tập trung thảo luận về những nội dung chính như: xây dựng Cộng đồng ASEAN và triển khai Hiến chương ASEAN; quan hệ đối ngoại và vai trò trung tâm của ASEAN trong các tiến trình hợp tác khu vực cũng như trong nỗ lực xây dựng cấu trúc khu vực mới; phát triển bền vững và ứng phó với những thách thức toàn cầu. Các nhà lãnh đạo quyết định chính thức mời Tổng thống Nga và Mỹ tham gia Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) bắt đầu từ năm 2011, sau khi tham khảo các nước ngoài ASEAN tham gia EAS.

9. Sự cố “bùn đỏ” Hungary


Cơn lũ bùn đỏ do vỡ hồ chứa chất thải của một nhà máy nhôm tại miền tây Hungary ngày 7/10 đã nhuộm đỏ một khu vực rộng đến 40 km2, phá hủy nhiều cơ sở hạ tầng ở thị trấn Ajka, làm chết ít nhất 4 người và hơn 100 người bị bỏng hóa chất và cay mắt. Nhà chức trách Hungary cho biết đến sáng 7.10, độ pH của dòng lũ bùn vào khoảng 9,3, cao hơn mức bình thường nhưng thấp hơn nồng độ ban đầu là 13. Loại bùn đỏ này, chứa nhiều chất vô cùng độc hại như chì, chrome và thạch tín, tấn công vào móng, tóc, da, mắt cũng như những cơ quan nội tạng như gan, thận, đồng thời có khả năng gây ung thư…Toàn bộ hệ sinh thái của sông Mascal, một con sông nhỏ trong vùng, đã bị bùn độc hủy diệt hoàn toàn.

Hệ quả của thảm họa “bùn đỏ” Hungary là nghiêm trọng khôn lường và cũng là lời cảnh tỉnh “phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường” dành cho các nhà hoạch định chính sách.

10. Giá vàng lập kỷ lục mọi thời đại 1.400 USD/ounce


Giá vàng đã lập kỷ lục mới 1.424,60 USD/ounce trên thị trường kim loại quý Luân Đôn trong phiên giao dịch ngày 9/11 sau khi vượt ngưỡng 1.400 USD/ounce hôm 8/11. Từ đầu năm tới nay, giá vàng đã tăng gần 30%. Đặc biệt, giá vàng đã tăng tới 8% kể từ khi FED đưa ra kế hoạch in thêm tiền mua 600 tỷ USD trái phiếu để vực dậy nền kinh tế Mỹ.
Theo Tố Uyên - Tầm Nhìn


Trước hết cần phân biệt tính bất định và rủi ro theo quan điểm của Frank Knight đề xuất cách đây khoảng 60 năm.
Tính bất định là muốn nói đến những tình huống trong đó có khả năng xảy ra nhiều kết cục khác nhau nhưng xác suất xuất hiện các kết cục đó không xác định được. Còn rủi ro ám chỉ những tình huống trong đó chúng ta có thể nêu ra tất cả những kết cục có thể có và biết xác suất xảy ra của mỗi kết cục.

Con người ta mong muốn gánh chịu rủi ro ở những mức độ khác nhau. Một số người ghét rủi ro, số khác thích mạo hiểm, và những người khác thì trung lập. Nếu một người thích có một mức thu nhập nhất định cho trước hơn là một công việc rủi ro có thu nhập kỳ vọng như nhau, thì người đó được coi là người ghét rủi ro (một người như vậy sẽ có độ thỏa dụng biên theo thu nhập giảm dần).


 Ghét rủi ro là thái độ phổ biến nhất đối với rủi ro. Để thấy được mọi người trong mọi lúc đều ghét rủi ro, cần lưu ý rằng, người ta thường mua bảo hiểm để đề phòng hàng loạt các kiểu rủi ro. Và hầu hết mọi người không chỉ mua bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm ôtô, mà còn tìm những nghề nghiệp có đồng lương tương đối ổn định.

Theo Robert S. Pindyck, Daniel L. Rubinfeld.
Kinh tế học vi mô
. Bản dịch tiếng Việt. Nhà xuất bản Thống kê.

Kinh tế học : Người ghét rủi ro là người như thế nào?

Từ  Power ở đây vừa có nghĩa là sức mạnh, năng lực, vừa là tên gọi của một  phương pháp học tập ở bậc đại học do GS Robert Feldman (ĐH  Massachusetts) đề xướng nhằm hướng dẫn SV, đặc biệt là SV năm 1, cách  học tập có hiệu quả nhất.




Phương pháp Power bao gồm 5 yếu tố cơ bản:

1. Prepare (chuẩn bị sửa soạn):
Quá  trình học tập ở đại học không phải chỉ bắt đầu ở giảng đường khi SV  nghe thầy giáo giảng bài hoặc trao đổi, tranh luận với các bạn đồng học.  Quá trình này chỉ thật sự bắt đầu khi SV chuẩn bị một cách tích cực các  điều kiện cần thiết để tiếp cận môn học như: đọc trước giáo trình, tìm  tài liệu có liên quan. Sự chuẩn bị tư liệu này càng trở nên hiệu quả hơn  khi đi liền với nó là một sự chuẩn bị về mặt tâm thế để có thể tiếp cận  kiến thức một cách chủ động và sáng tạo. Với sự chuẩn bị tâm thế này,  SV có thể chủ động tự đặt trước cho mình một số câu hỏi liên quan đến  nội dung sẽ được đặt trên lớp, thậm chí có thể tự tạo cho mình một cái  “khung tri thức” để trên cơ sở đó có thể tiếp nhận bài học một cách có  hệ thống. Với cách chuẩn bị tích cực này, tri thức mà SV có được không  phải là một tri thức được truyền đạt một chiều từ phía người dạy mà còn  do chính SV tự tạo ra bằng cách chuẩn bị các điều kiện thực thể và tâm  thể thuận lợi cho sự tiếp nhận tri thức. Nói “học là quá trình hợp tác  giữa người dạy và người học” có nghĩa là như vậy.

2. Organize (tổ chức):
Sự  chuẩn bị nói trên sẽ được nâng cao hơn nữa khi SV bước vào giai đoạn  thứ hai, giai đoạn người SV biết tự tổ chức, sắp xếp quá trình học tập  của mình một cách có mục đích và hệ thống.

3. Work (làm việc):
Một  trong những sai lầm của việc học tập cũ là tách rời việc học tập ra  khỏi lao động trong khi lao động(làm việc) chính là một quá trình học  tập có hiệu quả nhất. Trong giai đoạn này SV phải biết cách làm việc một  cách có ý thức và có phương pháp ở trong lớp và trong phòng thí nghiệm,  thực hành. Các hình thưcs lao động trong môi trường đại học rất đa  dạng, phong phú: lắng nghe và ghi chép bài giảng, thuyết trình hoặc thảo  luận, truy cập thông tin, xử lí các dữ liệu, bài tập, thực tập các thí  nghiệm, tất cả đều đòi hỏi phải làm việc thật nghiêm túc, có hiệu quả.

4. Evaluate (đánh giá):
Ngoài  hệ thống đánh giá của nhà trường, SV còn phải biết tự đánh giá chính  bản thân mình cũng như sản phẩm do mình tạo ra trong quá trình học tập.  Chỉ có qua đánh giá một cách trung thực,SV mới biết mình đang đứng ở vị  trí, thứ bậc nào và cần phải làm thế nào để có thể cải thiện vị trí, thứ  bậc đó. Tự đánh giá cũng là một hình thức phản tỉnh để qua đó nâng cao  trình độ và ý thức học tập.

5. Rethink (suy nghĩ lại):
Khả  năng suy nghĩ lại này giúp SV luôn biết cách cải thiện điều kiện,  phương pháp và kết quả học tập của mình. Về bản chất, tư duy đại học  không phải là một thứ tư duy đơn tuyển, một chiều mà đó chính là hình  thức tư duy đa tuyển, phức hợp đòi hỏi người học, người dạy, người  nghiên cứu phải có tính sáng tạo cao, luôn biết cachs lạt ngược vấn đề  theo một cách khác, soi sáng vấn đề từ những khía cạnh chưa ai đề cập  đến. Khả năng suy nghĩ lại này cũng gắn liền với khả năng làm lại (redo)  và tái tạo quá trình học tập trên can bản nhận thức mới đối với vấn đề  và kết quả đã đặt ra.
Cuối  cùng, chữ R của giai đoạn thứ năm này cũng có nghĩa là Recreate (giải  lao, giải trí, tiêu khiển), một hoạt động cũng quan trọng không kém so  với các hoạt động học tập chính khóa. Ở đây cần nhớ rằng ai không biết  cách nghỉ ngơi, giải trí, tiêu khiển thì người đó cũng không biết cách  học tập hoặc học tập không có kết quả cao.

Theo Tuổi trẻ
Cách học tiếng Anh theo Phương pháp POWER của GS Robert Feldman (ĐH  Massachusetts)

Chỉ số giá tiêu dùng (được viết tắt là CPI - Consumer Price Index) là chỉ số tính theo phần trăm để phản ánh mức thay đổi tương đối của giá hàng tiêu dùng theo thời gian. Sở dĩ chỉ là thay đổi tương đối vì chỉ số này chỉ dựa vào một giỏ hàng hóa đại diện cho toàn bộ hàng tiêu dùng.

Đây là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để đo lường mức giá và sự thay đổi của mức giá chính là lạm phát.


Phương pháp tính Chỉ số giá tiêu dùng CPI
Để tính toán chỉ số giá tiêu dùng người ta tính số bình quân gia quyền theo công thức Laspeyres của giá cả của kỳ báo cáo (kỳ t) so với kỳ cơ sở. Để làm được điều đó phải tiến hành như sau:
1. Cố định giỏ hàng hóa: thông qua điều tra, người ta sẽ xác định lượng hàng hoá, dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình mua.
2. Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng hoá tại mỗi thời điểm.
3. Tính chi phí (bằng tiền) để mua giỏ hàng hoá bằng cách dùng số lượng nhân với giá cả của từng loại hàng hoá rồi cộng lại.
4. Lựa chọn thời kỳ gốc để làm cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá tiêu dùng bằng công thức sau:
CPI(thời kì t) = 100 x(Chi phí để mua giỏ hàng hoá thời kỳ t) : (Chi phí để mua giỏ hàng hoá kỳ cơ sở)
Thời kỳ gốc sẽ được thay đổi trong vòng 5 đến 7 năm tùy ở từng nước.
Nếu muốn tính chỉ số lạm phát của một thời kỳ, người ta áp dụng công thức sau:
Chỉ số lạm phát thời kỳ T = (CPI thời kỳ T - CPI thời kỳ T-1) : CPI thời kỳ T-1
Trên thực tế người ta có thể xác định quyền số trong tính toán Chỉ số giá tiêu dùng CPI bằng cách điều tra để tính toán tỷ trọng chi tiêu của từng nhóm hàng hoá, dịch vụ so với tổng giá trị chi tiêu. Sau đó quyền số này được dùng để tính chỉ số giá tiêu dùng cho các thời kỳ sau. Chỉ số giá tiêu dùng CPI thường được tính hàng tháng và hàng năm. Chỉ số giá tiêu dùng CPI còn được tính toán cho từng nhóm hàng hóa hoặc một số nhóm hàng hóa tùy theo mục đích sử dụng. Ngoài Chỉ số giá tiêu dùng CPI người ta cũng tính toán Chỉ số giá buôn bán là mức giá của giỏ hàng hóa do các doanh nghiệp mua vào, khác với Chỉ số giá tiêu dùng CPI là giá do người tiêu dùng mua vào (giá bán lẻ).

Các vấn đề gặp phải khi tính toán Chỉ số giá tiêu dùng CPI
Do sử dụng giỏ hàng hoá cố định nên khi tính toán Chỉ số giá tiêu dùng CPI có ba vấn đề chính dẫn đến hạn chế của Chỉ số giá tiêu dùng CPI sau đây:
1. Chỉ số giá tiêu dùng CPI không phản ánh được độ lệch thay thế vì nó sử dụng giỏ hàng hoá cố định. Khi giá cả một mặt hàng này tăng nhanh hơn so với các mặt hàng khác thì người tiêu dùng sẽ có xu hướng ít tiêu dùng những mặt hàng đã trở nên quá đắt đỏ mà tiêu dùng nhiều những hàng hoá đỡ đắt đỏ hơn. Yếu tố này làm Chỉ số giá tiêu dùng CPI đã đánh giá cao hơn thực tế mức giá.
2. Chỉ số giá tiêu dùng CPI không phản ánh được sự xuất hiện của những hàng hoá mới vì nó sử dụng giỏ hàng hoá cố định trong khi nếu có hàng hoá mới xuất hiện thì một đơn vị tiền tệ có thể mua được các sản phẩm đa dạng hơn. Chỉ số giá tiêu dùng CPI không phản ánh được sự gia tăng sức mua này của đồng tiền nên vì thế lại đánh giá mức giá cao hơn thực tế.
3. Không phản ánh được sự thay đổi của chất lượng hàng hoá vì nếu mức giá của một hàng hoá cụ nào đó tăng nhưng chất lượng cũng tăng tương ứng thậm chí tăng hơn thì trên thực tế mức giá không tăng. Chất lượng hàng hoá dịch vụ nhìn chung đều có xu hướng được nâng cao nên Chỉ số giá tiêu dùng CPI cũng đã phóng đại mức giá.

Một số ứng dụng của Chỉ số giá tiêu dùng CPI

Chỉ số giá tiêu dùng CPI thường được sử dụng để điều chỉnh thu nhập của người dân và các hoạt động kinh tế khác. Dựa vào Chỉ số giá tiêu dùng CPI, chính phủ xem xét mức thuế tương ứng, các ông chủ thì chỉnh lương nhân viên cho phù hợp với chi phí sinh hoạt. Các thông tin về hoạt động bán lẻ, thu nhập theo giờ và theo tuần, tổng thu nhập và tổng sản phẩm quốc dân được gắn kết với Chỉ số giá tiêu dùng CPI để lý giải các chỉ số có liên quan trong thời kì không có ảnh hưởng của lạm phát.

Chỉ số giá tiêu dùng CPI và thị trường

Thay đổi của giá cả của hàng hoá dịch vụ trên thị trường ảnh hưởng trực tiếp đến các chứng khoán có lãi suất cố định. Nếu giá cả tăng, các khoản lãi cố định sẽ có giá trị thực tế thấp hơn và do đó làm giảm mức sinh lợi của các chứng khoán. Lạm phát cũng sẽ gây ảnh hưởng đến các khoản tiền lương, trợ cấp, hưu trí vì chúng là các khoản tiền trả cố định. Những người hưởng lương hưu sẽ phải nhìn đồng tiền của họ "biến mất" dần dần vì giảm sức mua theo thời gian.
Biến động giá cả có thể ảnh hưởng xấu đến các công ty. Người ta thường kì vọng mức độ lạm phát nhẹ trong nền kinh tế đang tăng trưởng, tuy nhiên nếu giá cả của các yếu tố đầu vào tăng quá nhanh các nhà sản xuất sẽ bị giảm lợi nhuận. Mặt khác giảm phát chắc chắn sẽ dẫn tới giảm mức cầu của người tiêu dùng. Trong trường hợp này các nhà sản xuất buộc phải giảm giá để bán được hàng, tuy nhiên giá cả các yếu tố đầu vào có thể không giảm một lượng tương ứng. Vì thế biên lợi nhuận của nhà sản xuất cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Tính toán Chỉ số giá tiêu dùng CPI ở Việt Nam

Việc tính toán Chỉ số giá tiêu dùng CPI ở Việt Nam do Tổng cục thống kê đảm nhiệm. Quyền số để tính Chỉ số giá tiêu dùng CPI được xác định năm 2000 và bắt đầu áp dụng từ tháng 7 năm 2001. Quyền số này dựa trên kết quả của hai cuộc điều tra là Điều tra mức sống dân cư Việt nam 1997-1998 và Điều tra kinh tế hộ gia đình năm 1999.

Nguồn từ kiwipedia.org

Kinh tế học : Chỉ số giá tiêu dùng CPI là gì?

1)    Mức sản lượng quốc dân (tức GDP thực tế) cao và không ngừng tăng lên.
2)    Mức hữu nghiệp cao (hay thất nghiệp thấp).
3)    Mức giá ổn định hoặc tăng vừa phải, trong đó giá cả và tiền lương được xác định bởi cung và cầu trên thị trường tự do.


Kinh tế học trong hành động: Cuộc Đại Suy Thoái
Mục tiêu trọng tâm của chính sách kinh tế vĩ mô đã được hình thành chủ yếu là do nỗi lo sợ cuộc đại suy thoái mới, một sự kiện đã để lại ấn tượng không thể nào quên đối với tất cả những ai đã sống qua thời kỳ đó. Bắt đầu bằng sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929, nước Mỹ đã trải qua một thập kỷ đầy khó khăn kéo dài đến tận chiến tranh thế giới lần II. Ngày nay, thật khó mà tin được rằng năm 1932, Đảng Cộng Hòa lại từng ra khẩu hiệu: “Sự thịnh vượng chỉ còn trong tầm tay”. Tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt từ 3,2% năm 1929 lên gần 25% năm 1933, tức là cứ bốn người thì có một người thất nghiệp. Tiêu dùng tụt xuống, trong khi sản xuất công nghiệp giảm hơn một nửa. Nhiều chương trình của chính phủ về “mạng lưới an toàn” mà ngày nay chúng ta đang được trợ cấp, như bảo hiểm tiền gởi liên bang hay bảo hiểm xã hội, đã xuất hiện từ sau thảm kịch  đó. Nhờ hiểu biết tốt hơn về kinh tế học vĩ mô, phần lớn các nhà kinh tế đều tin rằng, giờ đây khó có thể có một cuộc suy thoái nào khác có thể hủy diệt được đất nước này.

Nguồn: Paul A Samuelson, Wiliam D. Nordhalls (1948). Kinh tế học. Bản dịch tiếng Việt. Nhà xuất bản Tài chính, tái bản lần 1 (2007)

Kinh tế học : Mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô là gì

GDP (Tổng sản phẩm quốc nội hay Tổng sản phẩm nội địa) có thể được tính theo ba phương pháp sau:
+ Phương pháp sản xuất
+ Phương pháp chi tiêu
+ Phương pháp thu nhập


Phương pháp sản xuất
GDP = VAa + VAi + VAs + VAk
Với:
VA = GO - CPTG
VA (Value added) : giá trị gia tăng
GO (Gross output) : tổng giá trị sản lượng đầu ra hay tổng xuất lượng, là toàn bộ giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ mà một nền kinh tế có thể sản xuất ra được trên lãnh thổ của mình trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm)
GO = P1xQ1 + P2xQ2 + P3xQ3 + ... + PnxQn
(P là kí hiệu cho giá hàng hóa, Q là số lượng)
CPTG : chi phí trung gian, là chi phí cho hàng hóa và dịch vụ trung gian - là những hàng hóa và dịch vụ dùng làm đầu vào cho quá trình sản xuất ta hàng hóa, dịch vụ khác và được sử dụng hết một lần cho quá trình đó
VAa (agricultural) : giá trị gia tăng khu vực nông nghiệp (bao gồm nông, lâm, ngư, thủy hải sản, khai khoáng, thủ công nghiệp)
VAi (industrial) : giá trị gia tăng khu vực công nghiệp
VAs (service) : giá trị gia tăng khu vực dịch vụ
VAk (knowledge and information) : giá trị gia tăng khu vực thông tin và chất xám (hay kinh tế tri thức)
Phương pháp chi tiêu
GDP = C + I + G + X - M
Với:
C : chi tiêu tiêu dùng thực tế của hộ gia đình
I : chi tiêu đầu tư tư nhân
G : chi tiêu thực tế của chính phủ cho hàng hóa và dịch vụ
X : xuất khẩu
M : nhập khẩu
Phương pháp thu nhập
GDP = w + i + r + Pr + Ti + De
Trong đó:
w (wage) : tiền lương
i (interest rate) : tiền lãi
r (rent) : tiền cho thuê mặt bằng, máy móc hay phát minh khoa học
w, i, r là thu nhập của khu vực hộ gia đình
Pr (Profit) : lợi nhuận (trước thuế thu nhập) của doanh nghiệp
Ti (Tax inditect) : thuế gián thu, như thuế VAT, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt...
De (Depreceation) : khấu hao, là khoản tiền được trích để hình thành quỹ tại doanh nghiệp, mục đích là để sửa chữa máy móc, nhà xưởng...

Theo bài giảng của Ts. Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư
GV Khoa Kinh tế phát triển, ĐH Kinh tế TP HCM

Kinh tế học : Cách tính Tổng sản phẩm quốc nội GDP như thế nào?

Gary Becker là một trong số những nhà kinh tế có nhiều sáng tạo nhất trong giai đoạn cuối thế kỷ XX. Cách tiếp cận độc đáo của ông liên quan đến việc chấp nhận giả thiết về tính duy lý trong kinh tế học và áp dụng nó vào rất nhiều vấn đề xã hội mà trước đó chưa được kinh tế học nghiên cứu tới. Cách tiếp cận này đã gây dựng nên nhiều chuyên ngành mới trong kinh tế học, như kinh tế học tội phạm và hình phạt, kinh tế học về nghiện hút, kinh tế học gia đỉnh, lý thuyết về tư bản con người, và kinh tế học về phân biệt đối xử.


Gary Becker sinh năm 1930 tại Pottsville, Pennsylvania và lớn lên tại Brooklyn, New York. Cha ông là một chủ kinh doanh nhỏ. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông vào trường Đại học Princeton, tại đó ông nhận bằng cử nhân về kinh tế học. Ông không hài lòng về chương trình đào tạo kinh tế tại Princeton vì “nó dường như không giải quyết những vấn đề thực tế” (Niên giám tiểu sử đương đại, 1993). Sau đó, ông học sau đại học về kinh tế học tại Đại học Chicago, dưới sự dìu dắt của Milton Friedman. Gary Becker nhận bằng thạc sĩ năm 1953 và tiến sĩ năm 1955 tại Đại học Chicago. Luận văn tiến sĩ của ông (Becker, 1957) về kinh tế học phân biệt đối xử là do Friedman hướng dẫn và sau này được Ủy ban giải thưởng Nobel đánh giá là một đóng góp đặc biệt quan trọng trong kinh tế học.


Gary Becker dạy tại trường Đại học Chicago từ năm 1954 đến 1957 và sau đó đảm nhận một vị trí tại Đại học Columbia. Vào năm 1969, ông quay trở lại Chicago với tư cách là giáo sư kinh tế học và xã hội học. Kể từ năm 1985, ông thường xuyên viết bài về kinh tế cho tạp chí Business Week, giải thích cách phân tích và các ý tưởng kinh tế cho công chúng. Vào năm 1992, ông được trao giải thưởng Nobel về Khoa học Kinh tế.
Gary Becker có 2 đóng góp quan trọng trong kinh tế học. Thứ nhất, ông vận dụng giả thuyết về tính duy lý của con người và áp dụng vào tất cả các dạng hành vi, bao gồm cả những vấn đề không mang tính kinh tế, hay không liên quan đến giao dịch thị trường giữa các cá nhân. Bắt đầu với giả thiết cho rằng con người hành động một cách duy lý và cố gắng tối đa hóa lợi ích, Gary Becker phân tích những quyết định về mức sinh, hôn nhân, ly dị (Becker, 1973, 1974, 1977), tội phạm và hình phạt (Becker, 1968) và nghiện ngập (1988, 1991, 1992). Thứ hai, Gary Becker đã có công trong việc giải thích cách vận hành thị trường lao động. Ông góp phần phát triển khái niệm tư bản con người (Becker, 1964) và giúp các nhà kinh tế học hiểu biết hơn về sự phân biệt đối xử trong thị trường lao động (Becker, 1957).


Gary Becker phân tích quyết định hôn nhân và quan hệ gia đình theo phương pháp phân tích truyền thống về hành vi của hãng kinh doanh. Các cá nhân dành thời gian để tìm kiếm bạn đời, người mang lại cho họ mức thỏa dụng cao nhất, giống như các hãng tìm các nhân viên tốt nhất có thể. Cuộc tìm kiếm càng kéo dài thì sẽ càng có nhiều thông tin hơn về người nào là bạn đời xứng đáng nhất. Cuối cùng, lý thuyết này dự đoán rằng những người cưới sớm sẽ có khả năng dễ ly dị hơn, một dự đoán nhận được ủng hộ khá mạnh mẽ từ số liệu thống kê. Lý thuyết này cũng dự đoán rằng những thất vọng về kỳ vọng, và thay đổi trong kỳ vọng, sẽ dẫn tới tình trạng ly dị. Và giống như một hãng muốn tối đai hóa lợi nhuận, một gia đình có thể tối đa hóa lợi ích thông qua sự chuyên môn hóa; do vậy người chồng thường chuyên môn hóa vào công việc trên thị trường và người vợ thì tập trung vào công việc gia đình. Một kết quả của việc chuyên môn hóa đó là người phụ nữa sẽ nhận được mức lương thị trường thấp hơn. Theo Gary Becker thì điều này không phải do sự phân biệt đối xử mà do quyết định giữa các thành viên trong gia đình về việc ai làm công việc nào.


Tính duy lý tiếp tục được Gary Becker vận dụng trong kinh tế học tội phạm và hình phạt, nghiện thuốc phiện và rượu.


Gary Becker cho rằng việc thích phân biệt đối xử là một biểu hiện của khẩu vị hay ý thích của người chủ, giống hệt như việc muốn ăn ngũ cốc hiệu Grape Nuts vào bữa sáng hàng ngày chỉ là kết quả của khẩu vị hay sự ưa thích mà thôi. Hơn thế nữa, Gary Becker (1993) cho rằng phân biệt đối xử phụ thuộc nhiều vào thị hiếu và quan điểm của người tiêu dùng và người lao động hơn là quan điểm và niềm tin của người chủ. Người tiêu dùng có thể không muốn giao dịch với người bán hàng thuộc nhóm người thiểu số; và những người lao động có thể không muốn làm việc cùng với phụ nữ hoặc người da đen. Trong trường hợp như vậy thì các hãng sẽ có xu hướng không thuê lao động nữ hoặc người da đen có tay nghề; vì điều đó làm giảm năng suất bán hàng hoặc lao động và do đó gây ra chi phí đối với hãng.

Gary Becker lưu ý rằng phân biệt đối xử làm cho người chủ phải chịu chi phí. Nếu một người chủ có thể thuê lao động nữ hoặc da đen, nhưng lại muốn phân biệt đối xử với những người này, khi đó người chủ sẽ phải trả giá cho sở thích này. Cái giá phải trả là chênh lệch lương giữa lao động nam da trắng và lao động nữ hoặc thiểu số không được thuê. Điều này có nghĩa là trong thị trường cạnh tranh, phân biệt đối xử sẽ ít có khả năng xảy ra vì các hãng phân biệt đối xử sẽ phải chịu chi phí cao hơn, còn các hãng không phân biệt đối xử sẽ chịu chi phí thấp hơn. Các hãng không phân biệt đối xử sẽ có xu hướng đẩy các hãng phân biệt đối xử ra khỏi ngành. Những giả thuyết này về phân biệt đối xử là chủ đề của nhiều chỉ trích và tranh luận.


Gary Becker đã mở rộng phạm vi phân tích kinh tế bằng cách coi mọi sự lựa chọn cá nhân đều được thực hiện một cách duy lý. Do vậy Gary Becker là nhà kinh tế tiên phong trong các nghiên cứu về phân biệt đối xử, tội phạm, giáo dục và hôn nhân. Mỗi lần ông mạo hiểm vượt ra ngoài phạm vi của kinh tế học truyền thống, ông đều thu được những kết quả thú vị và độc đáo, với những dự đoán rõ ràng và có thể kiểm định được. 

 
Điều quan trọng hơn nữa là cách tiếp cận của ông đã mở ra những hướng nghiên cứu và phương pháp mới trong việc xem xét các hoạt động phi thị trường của con người. Vì những lý do này, Gary Becker trở thành nhà kinh tế có sức sáng tạo mạnh nhất và có ảnh hưởng lớn nhất cuối thế kỉ XX. Ảnh hưởng đó có thể được đo bằng số lần trích dẫn rất lớn từ các tác phẩm của ông. Medoff (1989) xếp Gary Becker vào vị trí hàng đầu trong số các nhà kinh tế học dưới tuổi 65, dựa trên tổng số lần các tác phẩm của ông được trích dẫn, theo số liệu thống kê từ sách Chỉ dẫn trích dẫn khoa học xã hội.

Theo Steven Pressman. 1999. 50 nhà kinh tế tiêu biểu. Routledge. Bản dịch tiếng Việt. Nhà Xuất Bản Lao Động. 2003.


Kinh tế học : Gary Becker là ai?

Paul A. Samuelson, người Mỹ đầu tiên nhận giải Nobel Kinh tế vào năm 1970, cái tên quen thuộc với nhiều thế hệ sinh viên đại học trên khắp thế giới đã qua đời ngày 13/12/2009 tại nhà riêng bên ngoài Boston, Massachusetts, ở tuổi 94.




Paul A. Samuelson trong lần sinh nhật thứ 90 (Ảnh: MIT News)
Paul A. Samuelson trong lần sinh nhật thứ 90. (Ảnh: MIT News)


Cuốn Kinh tế học của Paul A. Samuelson được xuất bản lần đầu tiên năm 1948, và được dịch sang 40 ngôn ngữ khác nhau, là cuốn giáo khoa bán chạy nhất mọithời đại tại Mỹ. Cuốn sách này vẫn nổi tiếng ở thời điểm hiện tại, trong lần phát hành thứ 19 của mình. "Hơn bất bất cứ nhà kinh tế học đương đại nào, ông đã đóng góp cho việc nâng cao mức độ phân tích tổng quát và phương pháp luận trong khoa học kinh tế", lời biểu dương giải Nobel của Paul A. Samuelson viết.
Paul A. Samuelson sinh ngày 15 tháng 5 năm 1915 tại Gary, Indiana, Hoa Kỳ. Năm 1923, gia đình ông chuyển đến sống ở Chicago và ông đã học tại Đại học Chicago, học cao học và tiến sĩ tại Đại học Harvard. Tại Havard, ông theo đuổi lĩnh vực kinh tế học và từng thụ giáo Joseph Schumpeter, Wassily Leontief, Gottfried Haberler, và Alvin Hansen.
Ben Bernanke, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, đã ca ngợi vị cựu giáo sư Viện Công nghệ Massachusetts là "trí tuệ phi thường về kinh tế học".

Ông đã giúp đưa khoa kinh tế của Viện Công nghệ Massachusetts trở thành một trong những học viện giảng dạy và nghiên cứu nổi tiếng nhất thế giới.

Paul A. Samuelson nổi tiếng với công trình ứng dụng các phân tích toán học vào việc cân bằng giữa giá cả với cung và cầu. Vào năm 1996, ông đã được Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton trao tặng Huy chương Khoa học Quốc gia, giải thưởng khoa học danh giá nhất của Hoa Kỳ.

Theo Đình Ngân tổng hợp


Trong những năm gần đây, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên có khuynh hướng tăng lên, là do:

  • Nền kinh tế năng động luôn ở trạng thái biến đổi liên tục.
  • Sự tham gia của thanh thiếu niên, phụ nữ, những người di dân... vào lực lượng lao động.
  • Ở một số nước tiên tiến có chính sách bảo hiểm thất nghiệp của nhà nước, số tiền này lên đến 60-70% tiền lương (vì không đóng thuế thu nhập đối với tiền bảo hiểm). Do đó, công nhân không tích cực tìm việc hoặc có thể từ chối việc làm có lương thấp.


Kinh tế học : Vì sao tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên có khuynh hướng tăng lên?

Tổng sản phẩm trong nước (Gross Domestic Product GDP) là giá trị thị trường của tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một nước, trong một thời kì nhất định.
 

Định nghĩa này xem ra có vẻ đơn giản. Song trong thực tế, có rất nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh khi tính toán GDP của nền kinh tế. Do vậy, chúng ta hãy xem xét cẩn thận từng cụm từ trong định nghĩa này.

“DGP LÀ GIÁ TRỊ THỊ TRƯỜNG...”

Có lẽ bạn đã từng nghe câu châm ngôn: bạn ko thể so sánh táo với cam. Nhưng GDP lại làm đúng như vậy. GDP cộng rất nhiều loại sản phẩm thành một chỉ tiêu duy nhất về giá trị của hoạt động kinh tế. Để làm được điều này, nó phải sử dụng giá trị thị trường. Do giá trị thị trường biểu thị số tiền mà mọi người sẵn sàng chi trả cho các hàng hóa khác nhau, nên nó phản ánh giá trị của những hàng hóa này. Nếu giá của một quả táo bằng 2 lần giá cùa một quả cam, thì 1 quả táo đóng góp vào GDP gấp 2 lần giá trị đóng góp của 1 quả cam.

“CỦA TẤT CẢ...”

GDP cố gắng biểu thị một cách đầy đủ. Nó bao gồm tất cả các hàng hóa được sản xuất ra trong nền kinh tế và được bán hợp pháp trên các thị trường. GDP tính toán giá trị thị trường không chỉ của táo và cam, mà còn của lê, nho, sách, phim ảnh, dịchvụ cắt tóc, chăm sóc y tế, v.v...
Gdp còn bao gồm cả giá trị thị trường của dịch vụ nhà ở do khối lượng nhà ở hiện có của nền kinh tế cung cấp. Đối với những căn nhà cho thuê, chúng ta dễ dàng tính được giá trị này – tiền thuê nhà đúng bằng chi tiêu của người thuê nhà và thu nhập của chủ nhà. Tuy nhiên, có nhiều người sinh sống trong chính các căn nhà của họ và do vậy ko phải trả tiền thuê nhà. Chính phủ hạch toán cho những ngôi nhà do chủ sở hữu sử dụng vào gdp bằng cách ước tính giá trị cho thuê của chúng. Nghĩa là, GDP được tính dựa trên giả định cho rằng người chủ sở hữu trả tiền thuê nhà cho chính họ, do vậy tiền thuê nhà nằm trong cả chi tiêu và thu nhập của anh ta.

Tuy nhiên có một số sản phẩm mà GDP bỏ sót do việc tính toán chúng quá khó khăn. GDP không tính những sản phẩm được sản xuất và bán ra trong nền kinh tế ngầm, ví dụ như dược phẩm bất hợp pháp. Nó cũng không tính được những sản phẩm được sản xuất và dùng trong gia đình và do vậy không bao giờ được đưa ra thị trường. Những loại rau quả mua tại các cửa hàng tập phẩm là một phần của gdp, song rau quả trồng trong vườn của bạn lại không nằm trong đó.

Những thiếu sót này của GDP đôi khi có thể dẫn dến những kết quả kì quặc. Ví dụ, khi Lan trả tiền thuê Nam cắt cỏ cho cô ta, giao dịch này là một phần của GDP. Nếu Lan cưới Nam thì tình hình sẽ thay đổi. Mặc dù Nam vẫn tiếp tục chăm sóc bãi cỏ cho Lan, nhưng giá trị của hoạt động cắt cỏ giờ đây đã bị đưa ra khỏi GDP, bởi vì dịch vụ của Nam không còn được bán trên thị trường nữa. Do vậy, khi Lan và Nam cưới nhau, GDP giảm.

“CUỐI CÙNG...”

Nếu công ty International Paper sản xuất giấy, sau đó giấy được công ty Hallmark sử dụng để làm thiệp chúc mừng, thì giấy được gọi là hàng háo trung gian, còn thiệp chúc mừng được gọi là hàng hóa cuối cùng. GDP chỉ bao gồm giá trị của những hàng hóa cuối cùng. Việc cộng giá trị thị trường của giấy với giá trị thị trường của thiệp sẽ dẫn tới sự tính trùng. Nghĩa là, giá trị của giấy được tính hai lần ( tính sai).

Trường hợp ngoại lệ quan trọng đối với người tắc trên nảy sinh khi hàng hóa trung gian được sản xuất và, thay vì được sử dụng, nó được đưa vào hàng tồn kho của doanh nghiệp để sử dụng hoặc bán trong tương lai. Trong trường hợp đó, hàng hóa trung gian tạm thời coi là “cuối cùng” và giá trị của nó dưới dạng đầu tư vào hàng tồn kho được tính vào GDP. Sau đó, khi mức tồn kho hàng hóa trung gian này được sử dụng hoặc bán, thì đầu tư vào hàng tồn kho của doanh nghiệp sẽ là âm, và GDP trong thời kì sau phải giảm một lượng tương ứng.

“HÀNG HÓA VÀ DỊCH VỤ...”

GDP bao gồm những hàng hóa hữu hình (thực phẩm, quần áo, xe hơi...) và những dịch vụ vô hình (cắt tóc, lau nhà, khám bệnh...). Khi bạn mua chiếc đĩa CD được thực hiện bởi một nhóm nhạc mà bạn yêu thích ghi âm, thì điều này có nghĩa là bạn mua một hàng hóa và giá mua nằm trong GDP. Khi bạn trả tiền để nghe một buổi hòa nhạc cũng của nhóm nhạc đó, thì có nghĩa là bạn mua một dịch vụ và giá vé cũng nằm trong GDP.

“ĐƯỢC SẢN XUẤT RA...”

GDP bao gồm mọi hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong thời kì hiện tại. Nó không bao gồm những giao dịch liên quan đến hàng hóa được sản xuất ra trong quá khứ. Khi công ty General Motors sản xuất và bán chiếc xe hơi mới, thì giá trị của chiếc xe hơi đó được tính vào GDP. Khi người nào đó bán chiếc xe hơi đã qua sử dụng cho người khác, thì giá trị của chiếc xe hơi đã qua sử dụng đó không nằm trong GDP.

“TRONG PHẠM VI MỘT NƯỚC...”

GDP tính toán giá trị sản xuất trong phạm vi địa lý của một nước. Khi một công dân Canađa làm việc tạm thời ở Mỹ, thì giá trị sản xuất của anh ta là bộ phận cấu thành GDP của Mỹ. Khi một công dân Mỹ sở hữu nhà máy ở Haiti thì giá trị sản xuất tại nhà máy của anh ta sẽ không nằm trong GDP của Mỹ ( nó là một phần trong GDP của Haiti). Do vậy các sản phẩm được đưa vào GDP của một quốc gia khi chúng được sản xuất ra trên lãnh thổ quốc gia đó, bất kể nhà sản xuất có quốc tịch nước nào.

“...TRONG MỘT THỜI KÌ NHẤT ĐỊNH.”

GDP phản ánh giá trị sản xuất thực hiện trong một khoảng thời gian cụ thể. Khoảng thời gian này thường là một năm hoặc một quý (3 tháng). GDP phản ánh lượng thu nhập và chi tiêu trong thời kì đó.
Khi chính phủ thông báo GDP cho một quý, thì nó thường biểu thị GDP dưới dạng “hàng năm”. Điều này hàm ý con số GDP hàng quý được thông báo bằng tổng thu nhập hoặc chi tiêu trong quý nhân với 4. Chính phủ sử dụng quy ước này để đảm bảo rằng con số GDP hàng quý và hằng năm có thể so sánh với nhau một cách dễ dàng hơn.

Ngoài ra khi chính phủ thông báo GDP hàng quý thì số liệu này đã được điều chỉnh bằng một thủ thuật thống kê gọi là điều chỉnh thời vụ. Những số liệu chưa được điều chỉnh cho thấy một cách rõ ràng rằng nền kinh tế sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn trong một số thời điểm so với một số thời điểm khác trong năm. (Như bạn có thể dự đoán, mùa mua sắm vào dịp lễ Giáng sinh vào tháng 12 là thời kì cao điểm.) Khi theo dõi diễn biến của nền kinh tế, các nhà kinh tế và nhà hoạch định chính sách thường muốn bỏ qua những biến động thời vụ lặp lại thường xuyên này. Do vậy, các nhà thống kê của chính phủ điều chỉnh số liệu quý để loại trừ chu kì thời vụ. Số liệu GDP được thông báo trong các bản tin luôn được điều chỉnh để loại trừ tính thời vụ.
 
Bây giờ hãy nhắc lại định nghĩa GDP:
Tổng sản phẩm trong nước (Gross Domestic Product GDP) là giá trị thị trường của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một nước trong một thời kì nhất định.
Nguồn: N.Gregory Mankiw, Nguyên lý Kinh tế học – Principles of Economics

Tổng sản phẩm trong nước (Gross Domestic Product GDP) là một chỉ tiêu phức tạp về giá trị của hoạt động kinh tế, việc tính toán nó sẽ được nhắc đến trong những bài sau.

 Kinh tế học : Tổng sản phẩm trong nước (Gross Domestic Product GDP) là gì?

Toàn thể nông dân sẽ nhận được ít thu nhập trong mùa bội thu hơn là trong mùa thất thu. Trớ trêu thay, làm nông trông chờ vào thời tiết, ấy vậy mà thời tiết tốt lại là điều xấu đối với thu nhập của nông dân!



Lúa gạo là hàng hóa thiết yếu, dù giá có tăng cao hay giảm thấp đi chăng nữa, thì người tiêu dùng cũng phải sử dụng nó và chỉ với một lượng nhất định.
Theo quy luật cung - cầu : cung tăng lên do vụ thu hoạch được mùa có xu hướng làm giảm giá cả. Nhưng giá thấp hơn không làm lượng cầu tăng lên là bao, nghĩa là một vụ thu hoạch tốt (sản lượng cao) thường đi kèm với thu nhập thấp (thu nhập = giá cả x sản lượng).

Kinh tế học : Vì sao nông dân nhận được ít thu nhập trong mùa bội thu hơn là trong mùa thất thu?

Hơn hai thế kỉ trước đây, trong tác phẩm Sự giàu có của các quốc gia, Adam Smith đã đưa ra nghịch lý về giá trị (paradox of value). Ông viết, “Không có gì hữu hình bằng nước; nhưng nó chẳng làm giảm lượng mua sắm của bất kì thứ gì, trái lại, kim cương có rất ít giá trị sử dụng; nhưng phải mất một lượng lớn nhiều hàng hóa khác mới may ra đổi được lấy nó”.
Nói cách khác, tại sao một thứ rất cần thiết cho cuộc sống như nước lại có rất ít giá trị, trong khi, kim cương vốn thường chỉ được dùng làm đồ trang sức lại đòi một mức giá quá đáng như vậy?



Nghịch lý này đã làm bận lòng Adam Smith 200 năm trước đây. Ngày nay, chúng ta biết cách giải quyết nghịch lý đó như sau: đường cung và cầu đối với nước cắt nhau ở mức giá rất thấp, trong khi cung và cầu về kim cương lại có mức giá cân bằng rất cao. Trả lời như vậy xong, tất nhiên lại đi đến một câu hỏi khác: “Nhưng tại sao cung và cầu về nước lại cắt nhau ở mức giá thấp đến thế?” Câu trả lời là kim cương là một thứ rất khan hiếm và chi phí để tìm thêm một mẫu kim cương nữa rất cao, trong khi nước tương đối phong phú hơn và ở nhiều nơi trên thế giới, nó chỉ tốn rất ít tiền.

Nhưng câu trả lời này về việc hình thành chi phí phù hợp vẫn chưa giải đáp được một sự thật không kém phần quan trọng, đó là, nước trên thế giới rõ ràng hữu ích hơn nhiều so với nguồn cung về kim cương của thế giới. Để giải quyết điều đó, khi xét đến chi phí, chúng ta phải tính đến một sự thật thứ hai: xét về tổng thể, độ thỏa dụng (còn được gọi là độ hữu dụng Utility) của nước không quyết định đến giá hoặc cầu về nó. Trái lại, giá của nước do độ thỏa dụng biên (Marginal Utility) của nó, tức là độ hữu ích của cốc nước cuối cùng, quyết định.

Vì có quá nhiều nước, cốc nước cuối cùng có giá rất thấp. Mặc dù những giọt nước đầu tiên đáng giá cả cuộc sống, những giọt nước cuối cùng lại chỉ dùng để tưới cây cỏ hay rửa xe. Vì thế chúng ta thấy rằng một hàng hóa hết sức quý báu như nước lại có giá trị gần như bằng không vì giá trị của giọt nước cuối cùng gần như bằng không.

Giống như một sinh viên đã phát triển: lý thuyết về giá trị kinh tế rất dễ hiểu nếu bạn chỉ cần nhớ rằng trong kinh tế học cái chi tiết quyết định cái tổng thể. Chính là độ thỏa dụng biên quyết định giá và lượng.

Chúng ta có thể giải quyết nghịch lý về giá trị như sau: một hàng hóa càng có nhiều thì mức độ mong muốn đối với đơn vị cuối cùng của hàng hóa đó càng ít. Vì thế thật rõ ràng là tại sao một lượng lớn nước có giá rất thấp, và tại sao những thứ cần thiết cho sự sống còn, như không khí lại là thứ cho không. Trong cả hai trường hợp, một khối lượng lớn đã đẩy độ thỏa dụng biên xuống rất thấp và do đó, làm giảm giá của những thứ sống còn này.

Theo Paul A Samuelson, Wiliam D. Nordhalls (1948), Kinh tế học, Nhà xuất bản tài chính, tái bản lần 1 (2007)

Quy luật King
 Gregory King (1684-1712), người Anh đã phát hiện quy luật: “Đối với đa phần sản phẩm nông nghiệp, cầu nói chung thuộc loại không co giãn theo giá, do đó những vụ mùa bội thu dẫn đến sự sụt giảm tổng thu nhập của nông dân... nếu thiếu chính sách can thiệp của chính phủ”.
Hình ảnh từ: http://t1.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcSFy
iHpRYpN3l5IJtYGAK8madjRyVEPUdlHOFZMwgZODhdYGzSN

Sự can thiệp của chính phủ vào thị trường nông sản
Chính sách ổn định giá là cần thiết nhưng cũng là vấn đề không phải dễ gì giải quyết. Ở đây chúng ta sẽ đề cập đến những kinh nghiệm được áp dụng thành công trong nhiều nước.

(i)  Chương trình mua nông sản của chính phủ để bình ổn giá
Trong thời điểm thu hoạch, chính phủ tham gia mua nông sản trên thị trường với khối lượng tương đương với lượng thặng dư trên thị trường (Q1-Q0). Như vậy, giá sẽ không sụt giảm và tổng thu nhập vẫn tăng theo khối lượng cung tăng. Lượng nông sản mua được đưa vào kho dự trữ quốc gia. Nếu năm sau mất mùa, chính phủ sẽ bán ra thị trường  để bình ổn giá. Giải pháp này hữu hiệu khi tình huống trong nông nghiệp diễn ra theo hướng năm trúng mùa rồi năm thất màu. Tuy nhiên trên thực tế, nếu nhiều năm trúng màu liên tiếp, chính phủ phải tốn kém số lượng tiền rất lớn của ngân sách nhưng không bán được. Do đó, giải pháp này khó thực hiện trên thực tế.

(ii)   Bài học kinh nghiệm của chính phủ Nhật
Chính phủ vẫn tham gia mua nông sản trên thị trường. Tuy nhiên, chính phủ chỉ mua nông sản với chất lượng cao. Cách làm này có tác dụng lên 2 mặt: bất kể năm nào trúng hay thất mùa, chính phủ cũng có thể bván ra trên thị trường có thu nhập cao (dễ tiêu thụ). Như vậy, có thể thu hồi lại vốn và không ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách.
Nông dân sẽ phải điều chỉnh lại cung sản xuất theo hướng chuyển dịch sang nông sản có chất lượng cao.

(iii)   Bài học kinh nghiệm của chính phủ Thailand
(a) Khuyến khích nông dân sản xuất nông sản chất lượng cao và xuất khẩu bằng chính sách hỗ trợ tín dụng cho nông dân thực hiện việc chuyển dịch.
(b) Trong thời điểm thu hoạch, chính phủ cung cấp tín dụng với kỳ hạn 6 tháng (số tiền tương ứng với 80% giá trị lúa mà nông dân sản xuất) và chính phủ hỗ trợ 50% chi phí lãi suất nhằm giúp nông dân tăng khả năng dự trữ.
(c) Chính phủ khuyến khích các tổ chức kinh tế khác tham gia xuất khẩu thông qua:
(d) Giảm thuế xuất khẩu, cấp tín dụng ưu đãi cho các nhà xuất khẩu (6 tháng)
(e) Phân phối quota cho các nhà xuất khẩu theo hướng:
1.     Xây dựng kho chứa
2.     Quy mô quota được xác định theo quy mô kho chứa của nhà xuất khẩu

Xem thêm: Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế



 Các nhà kinh tế có 2 nhiệm vụ: phân tích nguyên nhân của sự thay đổi trong các biến số kinh tế và dự kiến kết quả của những thay đổi trong lựa chọn chính sách. Khi các biến mục tiêu xa rời giá trị mong muốn, có thể dùng những chính sách kinh tế để thực hiện những thay đổi cần thiết.

 Các chính sách kinh tế vĩ mô chính là các công cụ điều tiết nền kinh tế, bao gồm: chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách ngoại thương, chính sách thu nhập.

Sự phân tích tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô có thể trình bày một cách đơn giản, là nhằm đối phó với những thay đổi không nên có trong chi tiêu tư nhân.

Chính sách tài khóa có thể làm tăng sản lượng và số việc làm, bằng cách chính phủ tăng chi tiêu hoặc cắt giảm thuế suất. Ngược lại, để kiềm chế lạm phát, chính phủ có thể cắt giảm chi tiêu hàng hóa tăng thuế suất.

Về cơ bản, chính sách tiền tệ có tác động đến hai biến số kinh tế chủ yếu là cung tiền và mức lãi suất. Theo lý thuyết tiền tệ, thì mức cung tiền có liên quan trực tiếp với mức hoạt động kinh tế. Nghĩa là, số cung tiền nhiều hơn khuyến khích hoạt động kinh tế mở rộng, vì tạo cho dân chúng có khả năng mua hàng hóa và dịch vụ nhiều hơn. Những người ủng hộ lý thuyết này cho rằng bằng cách kiểm soát nguồn cung tiền, chính phủ có thể điều hòa hoạt động kinh tế và kiểm soát lạm phát. Theo lý thuyết Keynes, số cung tiền mở rộng sẽ làm tăng khả năng có những quỹ tiền tệ cho vay. Số cung tiền vượt quá số cầu, sẽ dẫn đến lãi suất giảm. Lãi suất giảm, đến lượt nó, sẽ khuyến khích những người kinh doanh mở rộng đầu tư của họ. Đầu tư tăng làm tăng tổng cầu, dẫn đến hoạt động kinh tế ở mức cao hơn, tạo nhiều công ăn việc làm hơn.
Tương tự, thời kỳ có tổng cầu tăng quá mức dẫn đến lạm phát, chính phủ theo đuổi chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm hạn chế tổng cầu bằng cách giảm cung tiền, tăng lãi suất và do đó đưa lại mức đầu tư thấp hơn với kỳ vọng lạm phát giảm.

Chính sách ngoại thương:  tác động đến cán cân thương mại và cán cân thanh toán thông qua chính sách về tỷ giá hối đoái, thuế xuất nhập khẩu, hạn ngạch...

Chính sách thu nhập: bao gồm chính sách giá cả và chính sách tiền lương.

Theo Ts. Nguyễn Như Ý, Ths. Trần Thị Bích Dung (2009), Kinh tế vĩ mô, Nhà xuất bản Thống kê.

Thời Báo Kinh tế Sài Gòn
Số đầu năm dương lịch 2010

Khủng hoảng kinh tế và
khủng hoảng trong kinh tế (học)
Trần Hữu Dũng

Vào ngày 5 tháng 11, 2008, trong lúc viếng thăm Trường Kinh tế Luân Đôn (London School of Economics) nổi tiếng, nữ hoàng Anh Elizabeth II hỏi các nhà kinh tế hiện diện: “Tại sao không ai tiên đoán được cuộc khủng hoảng tín dụng hiện nay?” (Nghe đâu hoàng gia đã mất ít nhất 50 triệu bảng Anh vì cuộc khủng hoảng này).

Câu hỏi của nữ hoàng  ̶  và có lẽ cũng của nhiều người khác  ̶  đã làm các giáo sư hiện diện vô cùng bối rối  Thật vậy, trong các “bong bóng” bị vỡ vì cuộc khủng hoảng tài chính hai năm nay, thì cái bị vỡ một cách “ngoạn mục” nhất có lẽ là “uy tín” của các nhà kinh tế vĩ mô.  (Nên nói cho rõ: những chỉ trích này thường nhắm vào kinh tế học vĩ mô (macroeconomics) và kinh tế tài chính (financial economics), còn kinh tế vi mô (microeconomics) thì được xem như “vô can”!).  Điều này không chỉ được nhận thấy từ người ngoài ngành, nhưng gay gắt nhất lại chính từ các nhà kinh tế.  Paul Krugman (Nobel 2008) chẳng hạn, thẳng thắn cho rằng môn kinh tế học vĩ mô trong 30 năm qua “nhẹ lời nhất thì có thể nói là cực kỳ vô dụng, còn thật nặng lời thì phải nói là thật sự có hại!”

Sự “thất vọng” này thường nhắm vào ba điểm.  Thứ nhất, kinh tế học là một phần “nguyên nhân” của cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại.  Thứ hai, đại đa số các nhà kinh tế, dù có trách nhiệm gây ra khủng hoảng hay không, đã không dự báo được nó.  Và thứ ba, các nhà kinh tế đã không có một kế sách hữu hiệu nào để “chữa trị” cuộc khủng hoảng này khi nó đã xảy ra.

Hư thực ra sao?

Trước hết, hãy nói về nguyên nhân cuộc khủng hoảng.  Tất nhiên, không ai phủ nhận vai trò then chốt của các ngân hàng khổng lồ, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, các ngân hàng trung ương (nhất là Hệ Thống Dự Trữ Liên Bang (Fed) của Mỹ thời kỳ Alan Greenspan làm chủ tịch), các chính khách (nhất là Henry Paulson, Bộ trưởng Ngân khố Mỹ thời Bush)... Cũng nên thêm vào danh sách “can phạm” này đông đảo những người có thu nhập thấp nhưng không lượng sức mình, liều lĩnh mua nhà (một phần cũng vì bị các công ty địa ốc dụ dỗ) để rồi không có tiền trả, gây khủng hoảng cho thị trường bất động sản, kéo theo phản ứng dây chuyền đến những thị trường khác...

Tất cả những điều trên đều là đúng, song nhiều người cho rằng thủ phạm sâu xa nhất không phải là vài cá nhân, một số công ty tài chính, thậm chí thể chế chính trị hay kinh tế, mà là một trường phái tư tưởng. Tư tưởng ấy là sự chấp nhận quá dễ dãi, thiếu phê phán, ý niệm “thị trường tự do” ảo huyền và không tưởng.  Chính ý niệm ấy, và những hệ luận “lô gích” (và chỉ là lô gích!) của nó, là nền móng trí thức, là một lăng kính để nhìn thực tế, mà “ngành kinh tế” (cụ thể ở các nước tư bản) đã chấp nhận gần suốt nửa thế kỷ qua, và được tôn sùng bởi những người làm chính sách như Alan Greenspan. Hệ tư tưởng ấy đã khống chế kinh tế học, trở nên lý thuyết “kinh tế học dòng chính” (mainstream economics) , đôi khi gọi là “trường phái Chicago” (vì Đại học Chicago là nơi tập trung đông đảo những nhà kinh tế hàng đầu có tư duy này, và mạnh mẽ truyền giảng nó).

Đối với những người cho rằng giới kinh tế đã “đóng góp” vào cuộc khủng hoảng này, thì thủ phạm thật là dễ thấy: đó là tư duy theo “trường phái Chicago” nói trên, và cụ thể là “giả thuyết thị trường hữu hiệu” (efficient market hypothesis) mà cái nôi là đại học này.

Trường phái Chicago và “giả thuyết thị trường hữu hiệu”

Hai người khai sanh “giả thuyết thị trường hữu hiệu” là Eugene Fama và Michael Jensen (đều là giáo sư kinh tế tài chính ở Đại học Chicago).  Giả thuyết này có ba “phiên bản”.  Theo “phiên bản mạnh” (cực đoan) của nó thì tất cả những gì mà người đầu tư cần biết đều được phản ảnh trong giá của chứng khoán.  Đây là một hệ quả của thuyết “kỳ vọng họp lý” (rational expectations) khống chế kinh tế học vĩ mô trong gần 30 năm nay.  Một hệ luận của thuyết “kỳ vọng họp lý” là, về lâu về dài, mọi can thiệp của nhà nước vào thị trường đều vô hiệu, hoặc phản tác dụng, nếu không thật sự là có hại. Giá cả trên thị trường là phản ảnh “những giá trị căn bản”.  Không thể nào xảy ra những cái gọi là “bong bóng tài sản”.  (Song, nên để ý ngay chỗ tự mâu thuẫn của giả thuyết này: nếu mọi thông tin đều “gói trọn” trong giá, thì ai dại gì tìm (mua) thêm thông tin?). Theo phiên bản “yếu” của giả thuyết này thì không thể dựa vào giá của chứng khoán trong quá khứ để tiên đoán giá của chúng trong tương lai.  Còn “phiên bản trung dung” của giả thuyết này thì cho rằng giá chứng khoán là phản ảnh những thông tin “công cộng” (public information) tức là những thông tin mà mọi người đều có được mà không tốn kém gì cả.  Phiên bản này của giả thuyết không loại trừ khả năng có những thông tin tư riêng, hoặc thông tin nội bộ, mà giá chứng khoán không phản ánh (và do đó những người sở hữu những thông tin này (hoặc có khả năng đặc biệt để phân tích và khai thác những thông tin ấy) sẽ có lợi thế trên thị trường chứng khoán).

Nói ngắn gọn: “giả thuyết thị trường hữu hiệu” cho rằng “thị trường” là trung thực và không bao giờ sai.  Trong “thế giới” của những người tin giả thuyết này, những “bất ngờ” ngoài dự đoán như các loại “bong bóng” (địa ốc hoặc tín dụng) không thể xảy ra! Nhìn từ quan điểm toán học thì “giả thuyết thị trường hữu hiệu” quả là “đẹp” tuyệt vời: mọi sự kiện đều lô-gích, chính xác, ăn khớp với nhau, đâu vào đấy.

Quả thật, mô hình toán học của giả thuyết này là quá “đẹp”: mỗi tác nhân kinh tế đều luôn luôn cư xử hợp lý (thậm chí lạnh lùng!) để “tối đa hoá” quyền lợi cuả mình, luôn luôn tính toán sáng suốt, với đầy đủ thông tin.  Chính vì cái “đẹp toán học” của mô hình này mà “giả thuyết thị trường hữu hiệu” đã quyến rũ biết bao nhiêu nhà kinh tế.  Và đó chính là điểm chính của những người quy trách nhiệm cho trường phái Chicago – nếu không là đa số các nhà kinh tế vĩ mô nói chung – cho khủng hoảng kinh tế hai năm nay.  Nói rõ ra, những nhà kinh tế này đã quá coi trọng “cái đẹp” mà không chú ý đến thực tế.  Họ mê những mô hình toán cực kỳ lô gích, thật trang nhã, bất chấp sự “hỗn độn”, “bừa bãi” của thực tế. Họ lánh mắt, không nhìn đến những trường họp ứng xử nằm ngoài mô hình thanh lịch của họ, dù những trường hợp này đầy rẫy trên thực tế.

Ngoài những lỗi lầm chung chung của giả thuyết thị trường hữu hiệu do sự thiếu thực tế của nó, có hai sự kiện khác, có liên hệ đến giả thuyết này mà, nghĩ kỹ lại, có thể trực tiếp đóng góp vào khủng hoảng.  Một là, chính giả thuyết này đã là cơ sở mà một số nhà kinh tế dựa vào để cố vấn các nhà đầu tư, các ngân hàng phát hành những loại chứng khoán thứ cấp (derivatives).  Dùng những công thức toán học và xác suất cực kỳ phức tạp, đó là những “bó chứng khoán” được cho là “gói ghém” một cách tối hảo mức hiểm nguy và mức lợi nhuận.  (Tương truyền, chính Ben Bernanke, khi mới nhậm chức chủ tịch Fed của Mỹ, cũng không hiểu rõ loại chứng khoán này, phải mời chuyên viên đến giải thích cho ông ta.)  Hai là, những nhà kinh tế (cố vấn cho các ngân hàng, các quỹ đầu tư) này chỉ phân tích các thị trường tài chính (khác với thị trường lao động, chẳng hạn), và chỉ nghĩ đến cách đầu tư sao cho tối hảo cho thân chủ, chứ không quan tâm gì đến tác dụng của hành vi này đến toàn bộ nền kinh tế.  Đây là một nhược điểm mà, nhìn lại, quả là một nguyên do gần gũi của cuộc khủng hoảng tài chính: Khi ước tính xác suất “mất mát”, các nhà kinh tế này gán xác suất bằng zêrô cho những sự cố cực kỳ ít khi xảy ra, tức là xem như những sự cố này không thể nào xảy ra.  Song, rõ ràng là “rất ít khi xảy ra” khác với “không thể xảy ra”, và hậu quả của lỗi lầm này càng “khủng khiếp” hơn khi mà tầm cỡ những mất mát khi việc khó-thể-xảy-ra xảy ra là gấp trăm, gấp ngàn, những mất mát thông thường.  Đó là điều đã xảy ra trong cuộc khủng hoảng này!
 
Nói như tỷ phú Warren Buffett: Từ nhận xét là thị trường “thường” hữu hiệu, các nhà kinh tế kết luận rằng thị trường “luôn luôn” hữu hiệu!  (Chính Buffett đã tạo nên cơ nghiệp không phải nhờ đầu tư ở những thị trường thường hiệu quả, nhưng vào những thị trường đôi khi không hiệu quả!)

Hai phản ứng

Làn sóng chống lại “kinh tế dòng chính” đến từ hai phía.  Từ một phía, nhiều nhà kinh tế trở lại với lý thuyết vĩ mô của Keynes để tìm giải pháp cho cuộc khủng hoảng hiện nay.  Từ một phía khác, một số nhà kinh tế khác, phác hoạ một trường phái kinh tế mới, thường được gọi là “kinh tế học ứng xử” (sẽ giải thích dưới đây).  Trường phái này có triển vọng đem vào “kinh tế dòng chính” một hình ảnh xác thực, súc tích hơn về tác phong con người, không như hình ảnh “khô khan”, “lạnh lùng”, cực kỳ đơn giản (dù rất “đẹp” theo nghĩa toán học!) của “trường phái Chicago”.  

Trở về với Keynes?  Nhóm kinh tế gia thứ nhất thì cho rằng “giả thuyết thị trường hữu hiệu” là sai lầm vì nó đã quên bài học của Keynes: không ai có tất cả thông tin cần có... Hơn nữa, không thể dùng xác suất để gán cho những sự cố chưa từng xảy ra! Nói cách khác: không một mô hình toán nào có thể tiên đoán tương lai, dù chỉ bằng xác suất.

Những nhà kinh tế cổ xuý việc trở về với Keynes tất nhiên gồm những người đã thiên về Keynes từ trước, nhưng đáng kể hơn nữa là có cả những người (như Richard Posner, thuộc “trường phái Chicago”) mà trước đây vẫn cho là Keynes đã lỗi thời.

Hoặc một lý thuyết kinh tế mới?  Trong khoảng hai mươi năm gần đây, một nhóm kinh tế gia đã đưa ra một lý thuyết mới gọi là “kinh tế học ứng xử(behavioral economics). Theo họ, sự ứng xử của những tác nhân kinh tế không hoàn toàn thuần lý, mà có những “thiên lệch” do nhận thức chủ quan, và những xu hướng như “thói bầy đàn”.  Thái độ này chúng ta thấy hàng ngày nhưng không thể giải thích trong mô hình “tự do chọn lựa” của kinh tế học tân cổ điển. Thí dụ một người nghiện thuốc lá, tuy chuộng tự do, có thể (ngược đời!) ủng hộ chính phủ cấm hút thuốc (để giúp anh ta bỏ thuốc).  Nói khác đi, theo “kinh tế học ứng xử”, hành vi con người là rất phức tạp, không thể giản đơn “mô hình hoá” nó như những tác nhân tối đa hoá lợi nhuận hoặc dụng ích như trong mô hình kinh tế tân cổ điển mà trường phái Chicago, và thuyết “thị trường hữu hiệu” áp dụng không chút ngại ngùng. “Thị trường”, theo kính tế học ứng xử, bị ảnh hưởng không ít của “cảm tính” thay vì hoàn toàn là những tính toán thuần lý.
 
Thực ra, chủ đích của môn kinh tế học ứng xử không phải là nhằm giải thích cuộc khủng hoảng tài chính (hay một sự cố vĩ mô nào) nhưng là một đóng góp cho kinh tế vi mô. Chỉ tình cờ là, trong khi phản bác “kinh tế dòng chính” (như bị khống chế bởi “trường phái Chicago” như hiện nay), thuyết kinh tế đối xử đã như một trái mìn làm nổ tung nền móng của “giả thuyết thị trường hữu hiệu”.

Tuy phái “ứng xử” và phái Keynes có nhiều điểm tương đồng, nhưng cũng có nhiều khác biệt.  Những người theo Keynes cho rằng chỉ trích của trường phái ứng xử (đối với “giả thuyết thị trường hữu hiệu”) là không cần thiết: chỉ cần vạch rõ sự phi lý của gỉả định con người có đầy đủ thông tin là đủ “đánh gục” trường phái Chicago rồi!  Nhiều người phái Keynes cũng e ngại phái ứng xử ở chỗ phái này không nhìn nhận giả thuyết tối đa hoá dụng ích mà phái Keynes vẫn muốn giữ, không phải vì nó thực tế, nhưng là một phương pháp mô hình hoá hoạt động kinh tế một cách hữu hiệu. Còn những người phái ứng xử thì cho rằng phái Keynes rất giỏi phân tích những hụt hẫng trong thị trường lao động, nhưng không giải thích nỗi những “tì vết” trong thị trường tài chính, mà chính những tì vết này mới là lý do gần gũi của cuộc khủng hoảng hiện nay.  Do đó, theo phái ứng xử thì những người theo Keynes không có một biện pháp mới nào để chữa trị cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay ngoài những biện pháp “sao lục” lại những gì Keynes đã đề nghị cho cuộc Đại Suy Thoái năm 1929.

● Đâu là giải pháp?

Rõ ràng là cuộc khủng hoảng hiện tại đã làm trầm trọng thêm sự phân hoá giữa các nhà kinh tế.  Dù mất nhiều uy tín, “trường phái Chicago” vẫn còn rất năng động.  Tuy ít còn ai biện hộ cho “giả thuyết thị trường hữu hiệu”, họ vẫn còn công kích các “biện pháp  Keynes” (mà chính quyền Obama đang sử dụng).  Robert Lucas (Nobel 1995, một trong những “sư tổ” ở Chicago) cho rằng chính sách kích cầu của Obama là một thứ “kinh tế học dỏm”, John Cochrane (một nhà kinh tế Chicago trẻ hơn, và cũng là con rễ của Eugene Fama!) thì cho đó là “chuyện thần tiên”.  Về phe Keynes thì có  Bradford DeLong (Đại học California) cho rằng chúng ta đang chứng kiến không gì khác hơn sự “sụp đổ trí thức” của trường phái Chicago.  Và nhiều người khác (như Paul Krugman, nói ở trên) thì còn nặng lời hơn nữa.  Phe Keynes, tất nhiên, cho rằng kích cầu là giải pháp không thể tránh, thậm chí họ còn cho rằng chính phủ Mỹ cần phải kích cầu nhiều hơn nữa.

Phe “kinh tế học ứng xử” thì không có nhiều ý kiến về kinh tế vĩ mô (và những người có ý kiến thì đều bênh phe Keynes).  Những đề nghị của họ có phần vi mô hơn (chẳng hạn như bảo hiểm y tế phải như thế nào, hay giảm thuế phải ra sao để phản ứng của dân chúng là “hữu hiệu” nhất).  Một ví dụ: theo họ, để thực hiện miễn thuế cho mỗi người 120 USD một năm (để kích cầu) chẳng hạn thì, thay vì gửi cho người ấy một cái séc 120 USD cho trọn năm, nên gởi 10 USD hàng tháng, vì kinh nghiệm cho thấy người nhận 120 USD sẽ để dành một ít, không tiêu dùng hết 120 USD.  Trái lại, nếu nhận 10 USD mỗi tháng thì anh ta có khuynh huớng tiêu hết 10 USD mỗi tháng, như vậy hiệu ứng kích cầu cho nền kinh tế sẽ lớn hơn.

Không như cuộc Đại Suy Thoái 1929 đã phát sinh học thuyết Keynes, ít có người nghĩ rằng cuộc khủng hoảng hiện tại sẽ sinh ra một học thuyết mới. Thuyết kinh tế ứng xử hẳn là sẽ phát triển hơn, nhưng nó đã có từ trước cuộc khủng hoảng này và chủ đích của nó không phải để giải thích những hiện tương kinh tế vĩ mô.
Trần Hữu Dũng
15-12-09

 Bernie Madoff arrested over alleged $50 billion fraud
Bernie Madoff, a former chairman of the NASDAQ stock market, has been arrested and charged with running a multi-billion dollar hedge fund swindle in New York.



Mr Madoff is alleged to have operated the scheme through his hedge fund business, which was separate from his better-known market-making business, Bernard L. Madoff Investment Securities (BMIS).
Mr Madoff told senior employees of his firm on Wednesday that "it's all just one big lie" and that he was "finished", according to a criminal complaint filed on Thursday night by the US Attorney's office and the Federal Bureau of Investigations (FBI).

He allegedly went on to say that the business was "a giant Ponzi scheme" – a reference to Charles Ponzi, one of the greatest swindlers in US history – and estimated that the scheme had lost investors $50bn over many years – which would make the hedge fund one of the biggest frauds in history.

www.telegraph.co.uk

    Kinh tế học : Tăng trưởng kinh tế (economic growth) là gì?

    Tăng trưởng kinh tế (economic growth) là một khái niệm mang tính định lượng; được biểu hiện bằng một trong hai cách: Cách 1: Sự gia tăng thực tế của tổng sản phẩm quốc dân GNP (Gross National Product) ; tổng sản phẩm quốc nội GDP ( Gross domestic product) hay sản phẩm quốc dân ròng NNP (Net National Product) trong một thời kỳ nhất định. Cách 2: Sự gia tăng thực tế theo đầu người của GNP ; GDP hay NNP trong một thời kỳ nhất định.
    Vì sao cần tăng trưởng nhanh?
    • Tăng trưởng nhanh là điều kiện cần để xóa đói giảm nghèo.
    • Tăng trưởng nhanh để củng cố quyền lực của chính phủ.
    • Tăng trường nhanh tạo thế thuận lợi trên bàn đàm phán quốc tế.
    • Tăng trưởng nhanh góp phần củng cố quốc phòng.
    • Tăng trưởng nhanh để tránh sự tụt hậu.
    Điều kiện để tăng trưởng nhanh?
    • Ổn định kinh tế vĩ mô.
    • Coi trọng vốn con người.
    • Ứng dụng khoa học công nghệ.
    • Tạo điều kiện cho thị trường hoạt động.
    • Mở cửa nền kinh tế.
    • Thống nhất ý chí.
    • Phải có những nhà kỹ trị (technocrat).
    Bạn đã biết Tăng trưởng kinh tế là gì, vậy nghĩ xem Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính như thế nào?

    Kinh tế học : Phát triển kinh tế bền vững (sustainable development) là gì?


     
    Phát triển kinh tế (economic development) gồm:
    • Tăng trưởng kinh tế.
    • Tiến bộ về chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường.
    • Thay đổi cơ cấu kinh tế.
    • Công dân của quốc gia phải tham gia vào và được hưởng thành quả của sự tăng trưởng.
    • Giải phóng con người khỏi sự lệ thuộc vào 1 cá nhân hay 1 tổ chức.
    Càng phát triển thì: Cơ cấu kinh tế:
    • Tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ trong GNP ngày càng tăng.
    • Tỷ trọng nông nghiệp trong GNP ngày càng giảm.
    Cơ cấu lao động:
    • Tỷ lệ lao động công nghiệp, lao động dịch vụ trong tổng lao động xã hội ngày càng tăng.
    • Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội ngày càng giảm.
    Phát triển kinh tế bền vững (sustainable development) là gì?
    Phát triển kinh tế bền vững (sustainable development) là sự phát triển thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện tại nhưng không ảnh hưởng đến việc thỏa mãn nhu cầu của thế hệ tương lai.
    Phát triển bền vững phải đảm bảo cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

    Kinh tế học : Hai kỹ thuật phân tích tìm cái tối ưu và tìm sự cân bằng

    Ảnh lấy từ: http://tutor2u.net/economics/content/diagrams/pricing3.gif

    Khi học kinh tế vi mô, bạn thường hay nghe nhắc đến TP, TC, AP, AC, MU, MP,... Ý nghĩa của sự vận dụng chúng là gì?
    Kinh tế học dùng hai kỹ thuật phân tích quan trọng: (1) tìm cái tối ưu và (2) tìm một sự cân bằng. Đứng trước bất kỳ một vấn đề nào, trước hết bạn phải trả lời câu hỏi: “Liệu đó là vấn đề tối ưu hóa hay vấn đề tìm cân bằng?”
    Làm sao phân biệt được 2 vấn đề này? Hãy nhìn vào bảng sau:

    Vấn đề tối ưu hóa
    Vấn đề cân bằng
    Liệu tôi nên mua một chiếc xe hơi mới hay nên dùng xe cũ một thời gian nữa?
    Liệu sang năm tới, giá xe hơi mới có chắc là thấp hơn không?
    Liệu tôi sẽ làm việc sung sướng hơn hay sẽ phải bỏ cuộc chơi và sống bằng của bố thí?
    Liệu trợ cấp phúc lợi cho người thất nghiệp cao có làm tăng tỷ lệ thất nghiệp lên không?
    Tôi nên mua một căn hộ riêng hay nên sống trong một căn hộ thuê?
    Cái gì quy định tỷ lệ giữa tiền thuê hàng năm một căn hộ với giá mua hẳn căn hộ đó?
    Không biết luật chống ma túy nên nghiêm khắc hơn hay nên khoan dung hơn?
    Nếu dùng ma túy không bị buộc tội thì việc dùng ma túy có tăng lên không?
    Liệu công đoàn của ta nên tiếp tục đình công hay tốt hơn hết là chấp nhận lời đề nghị của chủ?
    Đình công có làm tăng lương công nhân không?

    Ta nhận thấy rằng các vấn đề tối ưu hóa có dạng sau: “Làm điều này hoặc làm điều kia, điều nào sẽ tốt hơn cho tôi (hoặc cho doanh nghiệp của tôi, cho đất nước, thậm chí cho cả loài người)?”. Nói ngắn gọn lại là: hành vi nào tốt nhất? Loại thứ hai, tức là các vấn đề cân bằng, lại là câu hỏi: “Cái gì lý giải cho sự kiện mà ta quan sát thấy? Nói cụ thể hơn, cái gì lý giải cho mức giá và số liệu hàng hóa mua bán trên thị trường?”

    Có thể bắt gặp các vấn đề tối ưu hóa trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Mọi người kỹ sư phải cân nhắc xem chất liệu titan có tốt hơn thép không gỉ để làm một ăngten không, một ông tướng phải quyết định xem liệu nên tấn công hay phòng ngự, và một ông thầy thuốc lại phải cân nhắc xem nên kê đơn kháng sinh hay cho thuốc an thần. Kinh tế học có cả một hệ thống các cách phân tích những vấn đề tối ưu hóa, đủ căn cứ cho bất kỳ lĩnh vực áp dụng nào.

    Khi giải quyết các vấn đề cân bằng, chủ yếu là phải hiểu rõ sự tác động lẫn nhau giữa hành vi của một cá nhân hay một hãng này với quyết định của một cá nhân hay hãng khác. Khi tiên đoán liệu việc đình công có làm tăng tiền lương hay không, chúng ta bắt buộc phải xét chẳng những đến các yêu sách của công nhân, mà còn xét đến cả sự phản bác của giời chủ, cùng với việc khách hàng của hãng có thể dễ dàng quay sang mua một sản phẩm cạnh tranh,v.v..

    Mỗi một kỹ thuật nói trên sử dụng một công cụ nghiên cứu đặc trưng. Phân tích các vấn đề tối ưu hóa đòi hỏi phải hiểu biết các mối tương quan giữa các đại lượng tổng thể, bình quâncận biên. Kỹ thuật cơ bản dùng để giải quyết các vấn đề cân bằng là phân tích cung - cầu.

    Kinh tế học : Ngoại tác là gì?


    Ngoại tác xuất hiện khi sản xuất hay tiêu dùng của cá nhân (nhóm các cá nhân) ảnh hưởng đến sản xuất hoặc tiêu dùng của cá nhân (nhóm các cá nhân) khác và không có sự đền bù hay thanh toán nào được thực hiện bởi cá nhân gây ảnh hưởng. Kết quả này tồn tại ngoài giao dịch thị trường và có thể là một lợi ích bên ngoài hay chi phí bên ngoài (ngoại phí). Trong các trường hợp này, ngoại tác làm biến đổi lợi ích ròng xã hội.

    Các ngoại phí và mưa axít
    “Cuộc sống dưới bầu trời axít
    Trẻ con lại dụi mắt ở trường công lập Port Kembla.
    Mọi người đang chùi rửa các vết bẩn màu nâu, mái nhà bị ăn mòn và đám cà chua rồi sẽ chết...
    Một cụ bà 72 tuổi là cư dân ở cảng từ năm 1927, gia đình bà luôn luôn giữ trẻ con bên trong nhà vào những ngày trời khói mù mịt, nói rằng bà đã không thể nhớ lại bất cứ điều gì hơn những hạt bụi đã rơi xuống vào những tuần gần đây. Bà cụ đã chịu đựng các đám mây độc hại, và run lên bần bật do không khí ô nhiễm đang diễn ra. Lúc chăm sóc một em bé với da đầu bị viêm, bà chỉ dấu màu đỏ trên đôi tay của mình. Bà nói các hạt bụi rớt xuống trên cánh tay và khi bà phủi nó thì da bị đỏ tấy lên...
    ...Cách mạng công nghiệp vẫn đang diễn ra và tốt cho những người theo phái khắc kỷ ôn hòa ở Port Kembla khi họ ho và tìm con đường đi của họ xuyên qua một trận mưa bẩn như trút nữa.”
    Thời báo Sun – Herald, 8.11.1992, tr.11

    Theo Trần Võ Hùng Sơn (2003), Nhập môn phân tích lợi ích - chi phí,
    Nhà xuất bản ĐH Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

    Kinh tế học : Sự phân phối lại tối ưu theo pareto
    (Pareto – optimal redistribution)

    Sự dịch chuyển thu nhập hoặc của cải từ một cá nhân này sang cá nhân khác làm tăng độ thỏa dụng hoặc sự thỏa mãn của cả người cho lẫn người nhận, do đó đem lại sự cải thiện Pareto.

    Sự phân phối lại tối ưu theo Pareto có thể xảy ra nếu như một cá nhân nhận được một lợi ích nào đó từ một cá nhân khác – coi như kết quả của một tình cảm nhân đạo (Tặng quà cho hội từ thiện là một ví dụ về kiểu phân phối này).

    Kinh tế học phúc lợi theo truyền thống đã dựa vào nguyên lý Pareto, nguyên lý này đòi hỏi có một sự thay đổi để làm cho ít nhất một người khá lên và không ai kém đi, sự thay đổi này có thể coi là một sự cải thiện. Do đó, các vấn đề về sự phân phối lại nói chung làm cho một số người kiếm được lợi trong khi gây hại cho một nhóm khác, khó phân tích trong khung cảnh kinh tế học phúc lợi. Tuy nhiên sự phân phối lại tối ưu theo Pareto có thể phân tích được.

    Song nhiều nhà kinh tế học xem sự phân tích tối ưu Pareto là một quan điểm quá chặt chẽ đối với các vấn đề về công bằng phân phối.

    Theo David W. Pearce - Giám đốc Trung tâm kinh tế môi trường London – (1999).
    Từ điển Kinh tế học hiện đại. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

    Author Name

    Biểu mẫu liên hệ

    Tên

    Email *

    Thông báo *

    Được tạo bởi Blogger.