tháng 1 2011


Chủ sở hữu doanh nghiệp là người bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp, chia sẻ rủi ro với doanh nghiệp và nắm quyền kiểm soát, điều hành doanh nghiệp.
Trong công ty cổ phần, chủ sở hữu doanh nghiệp là các cổ đông thường. Trong doanh nghiệp nhà nước (bỏ vốn: nhà nước và chủ nợ; chịu rủi ro: nhà nước), chủ sở hữu là nhà nước.

 Thế nào mới được gọi là chủ sở hữu doanh nghiệp ?


Thông tin ở một công ty cổ phần như sau:
Tổng tài sản cần cho hoạt động 5 triệu đô, công ty đang xem xét 2 phương án tài trợ:
(1) Tài trợ 100% bằng vốn cổ phần thường
(2)  Tài trợ bằng nợ và vốn cổ phần thường với mức độ nợ 80%
Mệnh giá 1 cổ phần bằng 50 đô, lãi suất vay nợ 10%/năm, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 40%.
EBIT dự kiến đặt được 1 triệu đô.
Hãy tính EPSROE cho 2 phương án trên.


Báo cáo thu nhập
p.án 1
p.án 2
1
Doanh thu


2
Tổng chi phí hoạt động


3
Thu nhập EBIT
1 000 000
1 000 000
4
Lãi vay
-
400 000
5
Lãi trước thuế
1 000 000
600 000
6
Thuế thu nhập doanh nghiệp
400 000
240 000
7
Lãi ròng
600 000
360 000
8
Lãi suất cổ phần ưu đãi
-
-
9
Tổng thu nhập của cổ đông thường
600 000
360 000
10
EPS
6
18
11
ROA
0.12
0.36


Chỉ số phát triển con người HDI (Human Development Index) là tổng hợp ba chỉ tiêu: thu nhập bình quân đầu người, tuổi thọ trung bình và trình độ văn hóa.

Chỉ số thu nhập bình quân đầu người:

       Trong đó:
IA là thu nhập trung bình của nước A
Imin là thu nhập trung bình thấp nhất thế giới
Imax là thu nhập trung bình cao nhất thế giới

Chỉ số tuổi thọ:
 
Trong đó:
IL(A) là tuổi thọ trung bình của nước A
IL(min) là tuổi thọ trung bình thấp nhất thế giới
IL(max) là tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới

Chỉ số trình độ văn hóa:


Trong đó:


       Với:
e1A  là tỷ lệ biết chữ của nước A
e1min  là tỷ lệ biết chữ thấp nhất thế giới
e1max  là tỷ lệ biết chữ cao nhất thế giới

và:


Với:
e2A  là tỷ lệ đăng kí đi học của nước A
e2min  là tỷ lệ đăng kí đi học thấp nhất thế giới
e2max  là tỷ lệ đăng kí đi học cao nhất thế giới



HDI nằm trong khoảng (0 ; 1), giá trị càng lớn thì sự phát triển con người càng cao.

Kinh tế học : Cách tính chỉ số phát triển con người HDI (Human Development Index)

Theo PGS. TS Lê Văn Tề (2007,  Thị trường chứng khoán tại Việt Nam, nhà xuất bản Thống Kê) thì:
Một tài sản tài chính mà buộc người phát hành phải trả cho người nắm giữ một số tiền căn cứ vào lợi nhuận thu được (nếu có), sau khi đã thanh toán xong những khoản nghĩa vụ, được gọi là công cụ vốn (equity instrument), như cổ phiếu...
Một tài sản tái chính mang lại cho người nắm giữ nó quyền hưởng một khối lượng tiền cố định, được ấn định trước, được gọi là công cụ nợ (debt instrument), như trái phiếu kho bạc, trái phiếu công ty, hay các khoản cho vay...

Công cụ vốn (equity intrument) là gì


Theo PGS. TS Lê Văn Tề (2007,  Thị trường chứng khoán tại Việt Nam, nhà xuất bản Thống Kê) thì:
Một tài sản tái chính mang lại cho người nắm giữ nó quyền hưởng một khối lượng tiền cố định, được ấn định trước, được gọi là công cụ nợ (debt instrument), như trái phiếu kho bạc, trái phiếu công ty, hay các khoản cho vay...
Một tài sản tài chính mà buộc người phát hành phải trả cho người nắm giữ một số tiền căn cứ vào lợi nhuận thu được (nếu có), sau khi đã thanh toán xong những khoản nghĩa vụ, được gọi là công cụ vốn (equity instrument), như cổ phiếu.

Công cụ nợ (debt instrument) là gì?


§  Bất ổn chính trị
§  Chiến tranh xâm lược hay nội chiến
§  Sai lầm trong đường lối chính sách, trong việc thực hiện chính sách
§  Hành chính quan liêu
§  Tốc độ tăng dân số cao
§  Cạnh tranh quốc tế gay gắt

Kinh tế học : Những trở ngại trong quá trình phát triển kinh tế

1. Cung cấp lương thực thực phẩm

Hầu hết các nước đang phát triển đều dựa vào nông nghiệp trong nước để cung cấp lương thực thực phẩm cho tiêu dùng, nó tạo nên sự ổn định, đảm bảo an toàn cho phát triển.


Cũng cần chú ý rằng, nhập khẩu các yếu tố đầu vào của sản xuất (nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị cho sản xuất) làm tăng vốn sản xuất, còn việc nhập khẩu lương thực thực phẩm là để tiêu dùng, không gia tăng vốn sản xuất cho nền kinh tế.

2. Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp

Nguyên liệu từ nông nghiệp là đầu vào quan trọng cho sự phát triển của các ngành công nghiệp chế biến nông sản trong giai đoạn đầu quá trình công nghiệp hóa ở nhiều nước đang phát triển.

3. Cung cấp ngoại tệ cho nền kinh tế
Thông qua xuất khẩu nông sản

Các nước đang phát triển đều có nhu cầu rất lớn về ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, vật tư, thiết bị, nguyên liệu mà chưa tự sản xuất được trong nc. Một phần nhu cầu ngoại tệ đó, có thể đáp ứng được thông qua xuất khẩu nông sản.
Nông sản còn được coi là nguồn hàng hóa để phát triển ngành ngoại thương ở giai đoạn đầu.
Trong lịch sử, quá trình phát triển của một số nước cho thấy vốn được tích lũy từ những ngành nông nghiệp tạo ra hàng hóa xuất khẩu. Đó là trường hợp của các nước Úc, Canada, Đan Mạch, Thụy Điển, Tân Tây Lan, Mỹ, và cả Việt Nam.

4. Cung cấp vốn cho các ngành kinh tế khác

Thông qua:
Dạng trực tiếp: như nguồn thu từ thuế đất nông nghiệp, thuế xuất khẩu nông sản, nhậu khẩu tư liệu sản xuất nông nghiệp. Nguồn thu này được tập trung vào ngân sách nhà nước và dùng để đầu tư cho phát triển kinh tế.
Dạng gián tiếp: với chính sách quản lý giá của nhà nước theo xu hướng là giá sản phẩm công nghiệp tăng nhanh hơn giá nông sản, tạo điều kiện cho gia tăng nhanh tích lũy công nghiệp từ “hy sinh” của nông nghiệp.

5. Làm phát triển thị trường nội địa

Nông nghiệp và nông thôn là thị trường rộng lớn và chủ yếu của sản phẩm trong nước.
Việc tiêu dùng của người nông dân và mạng dân cư nông thôn đối với hàng hóa công nghiệp, hàng hóa tiêu dùng (vải, đồ gỗ, dụng cụ gia đình, vật liệu xây dựng), hàng hóa tư liệu sản xuất (phân bón, thuốc trừ sâu, nông cụ, trang thiết bị, máy móc) là tiêu biểu cho sự đóng góp về mặt thị trường của ngành nông nghiệp đối với quá trình phát triển kinh tế.
Sự đóng góp này cũng bao gồm cả việc bán lương thực, thực phẩm và nông sản nguyên liệu cho các ngành kinh tế khác.

Theo TS. Đinh Phi Hổ, TS. Lê Ngọc Uyển, Ths. Lê Thị Thanh Tùng. 2009.
Kinh tế phát triển: Lý thuyết và thực tiễn. Nhà xuất bản Thống Kê. Hà Nội.


Kinh tế học : Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế

Kiwipedia.org: The word agriculture is the English adaptation of Latin agricultūra, from ager, "a field", and cultūra, "cultivation" in the strict sense of "tillage of the soil". Thus, a literal reading of the word yields "tillage of a field / of fields".
Agriculture is the cultivation of animals , plants , fungi and other life forms for food, fiber, and other products used to sustain life. Agriculture was the key implement in the rise of sedentary human civilization, whereby farming of domesticated species created food surpluses that nurtured the development of civilization.


Trong những năm gần đây, nhiều học giả cho rằng đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế ngầm, đó là vô vàn các hoạt động không được khai báo cho chính phủ. Chúng là những hoạt động như đánh bạc, mại dâm, buôn bán ma túy, công việc của những người nhập cư bất hợp pháp, hoạt động dịch vụ đổi dịch vụ, khai khống tài khoản chi tiêu, buôn lậu và kể cả trồng cây nông sản ở nhà.
Một số nhà quan sát cho rằng, sự điều tiết của chúng phủ và thuế cao đã khiến cho một phần ba tổng sản lượng là do nền kinh tế ngầm sản xuất.


Hầu hết các hoạt động ngầm đề xuất phát từ động cơ mong muốn giảm thuế hoặc tránh sự kiểm soát hay trừng phạt của chính phủ. Khi kẻ bán ma túy lờ những khoản tiền thu được do bán chất marijuana không khai vào bản khai thuế, họ không chỉ nhằm giảm bớt mức thuế phải nộp mà còn để che dấu các hoạt động bất hợp pháp. Trái lại khi ai đó thuê trọn ngày một người bảo mẫu để chăm sóc con cái và không trả thuế bảo hiểm xã hội, thì người đó làm như vậy chỉ để giảm thuế hay tránh sự phiền toái phải khai các bản kê mà thôi, bởi vì bản thân những hoạt động ấy là hoàn toàn hợp pháp.

Không phải tất cả các hoạt động ngầm đề được tính đến một cách thích hợp trong GDP. Nói chung, các nhà kế toán quốc gia đều loại trừ các hoạt động bất hợp pháp khỏi thước đo sản lượng quốc dân – đó là do xã hội coi chúng là “điều xấu” chứ không phải “điều tốt”. Khối lượng buôn bán cocaine tăng lên không được tính vào GDP hay NEW. Tương tự, khi một nhà sưu tầm nghệ thuật bán bức tranh của Picasso ở Zurich và không khai báo đó như một khoản lợi tức vốn, thì đó là vấn đề về thu nhập chịu thuế thôi chứ không được tính vào GDP vì bức tranh ấy đã được sáng tác hàng vài thập kỷ trước rồi.

Thế còn những hoạt động động ngầm hợp pháp thì sao?
Những hoạt động của thợ mộc, bác sĩ, người trông trẻ và nông dân chẳng hạn, họ sản xuất ra các hàng hóa và dịch vụ có giá trị nhưng không khai báo thu nhập của họ cho chính phủ. Có lẽ ước tính đáng tin cậy nhất là của Tổng cục thuế, cơ quan tiến hành kiểm toán rất chặt chẽ đối với cá nhân. Dựa trên việc rà soát lại này Tổng cục thuế đã ước tính rằng, có từ 4 đến 8% thu nhập đã không được khai báo trong thời kỳ giữa những năm 1970.
...

Theo Paul A Samuelson, Wiliam D. Nordhalls (1948), Kinh tế học, Nhà xuất bản tài chính, tái bản lần 1 (2007)

Nguồn: Nền kinh tế ngầm là gì
Xem nhiều hơn tại: Kinh tế học

Nhóm sinh viên nghiên cứu tài chính (Students’ group of Finance Research, gọi tắt là nhóm SFR) ra đời vào ngày 20/11/1999 xuất phát từ tính kế thừa và tiếp tục phát huy những truyền thống, thành tích vẻ vang trong giảng dạy và học tập của Bộ môn tài chính doanh nghiệp Khoa TCDN trường ĐH Kinh tế TP.HCM.

Ngay từ khi ra đời nhóm SFR đã kích thích được phong trào học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên Khoa TCDN nói riêng và trường ĐH Kinh tế nói chung bằng các buổi hội thảo chuyên đề và các bản tin nghiên cứu tài chính được phát hành định kỳ.
Từ ngày ra đời đến nay nhóm đã tổ chức được nhiều buổi hội thảo khoa học với các chủ đề mang tính thời sự, nóng bỏng đang gây nhiều tranh luận trong giới kinh tế, chẳng hạn như: Những thời cơ và thách thức của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nguồn tài trợ cho phát triển công nghệ cao của Việt Nam, Quỹ đầu tư mạo hiểm, Vấn đề định giá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Khủng hoảng tài chính toàn cầu, v.v...
Về thông tin nghiên cứu tài chính, đây là một diễn đàn khoa học thực sự hấp dẫn và thu hút đông đảo sinh viên tham gia viết bài.


Nhiệm vụ hàng đầu và hết sức quan trọng đối với nhóm SFR là nghiên cứu khoa học và tổ chức nghiên cứu khoa học. Tính đến nay các thành viên nhóm SFR đã hoàn tất hàng trăm đề tài nghiên cứu khoa học để gửi dự thi các cấp và đã đạt nhiều giải cao, Khoa TCDN luôn dẫn đầu trường ĐH Kinh tế về số đề tài đoạt giải nghiên cứu khoa học (chiếm hơn 50% tổng số đề tài của trường), trong đó các đề tài của nhóm là chiếm đa số.

Hiện nay, các cựu thành viên ban điều hành, cựu thành viên SFR đều là những người thành công trong cuộc sống và sự nghiệp, đa số họ là những doanh nhân thành đạt, một số anh chị đã tự mở công ty tư vấn về tài chính kế toán, một số cựu thành viên đạt thành tích suất xắc đã được thầy cô giữ lại làm giảng viên ở Khoa.

Đặc biệt nhóm SFR đã tổ chức Cuộc thi “Bản lĩnh giám đốc tài chính – CFO”. Đây là cuộc thi truyền thống hàng năm của trường Đại Học Kinh Tế TP.HCM và do khoa TCDN tổ chức. Cuộc thi đã tạo ra được tiếng vang lớn. Điều đặc biệt nhất trong năm 2004 là Ban tổ chức đã mở rộng cuộc thi “Bản lĩnh Giám đốc tài chính – CFO” lần II cho tất cả sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn TP.HCM. Đây là một sự đổi mới rất quan trọng của Ban Tổ chức để nhằm mục đích “thương hiệu hoá” nghề “Giám đốc tài chính - CFO” cho toàn thể sinh viên kinh tế nói chung.


Cuối cùng, nhóm SFR sẽ tiếp tục duy trì và phát huy những thành quả đã đạt được để có thể trở thành cầu nối của những sinh viên trong khoa, và trở thành cầu nối của những con người đam mê lĩnh vực tài chính.

Kỉ niệm sinh nhật lần thứ 10 của nhóm SFR (20/11/1999 - 20/11/2009)

Nguồn từ sfr.vn
  SFR (Students’ group of Finance Research) là ai ?


 Hiệp định này sau khi ký kết năm 1991 đã đưa ra các điều kiên đối với các nước khi muốn tham gia vào khu vực châu Âu và sau khi được kết nạp. Điều kiện đầu tiên là tránh việc nới lỏng tài khóa: mức trần cho thâm hụt ngân sách là 3% GDP. Các nước có mức nợ lớn cũng bị thực hiện yêu cầu phải thực hiện các chính sách để giảm mức nợ trên GDP xuống dưới 60%. Hơn nữa, các thành viên gia nhập khu vực châu Âu phải thành công trong việc đưa mức lạm phát xuống thấp, mức lạm phát thấp được thể hiện trực tiếp qua việc thay đổi của chỉ số giá và gián tiếp qua lãi suất danh nghĩa (một lần nữa lại bị gắn với hiệu ứng Ivring Fisher!).


Không chỉ chính phủ các nước liên minh châu Âu ký kết tham gia thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt trong những năm 1990 mà sau đó, hy vọng của châu Âu là thực hiện cuộc cải cách thể chế, tạo lập các ngân hàng trung ương độc lập một cách chính thức. Hiệp định Maastricht cũng đã tạo lập ra một Ngân hàng Trung ương châu Âu độc lập với mục tiêu là theo đuổi sự ổn định giá cả.

Nguồn: David Begg, Stanley Fischer, Rudiger Dornbusch. Kinh tế học. McGraw-Hill. Tái bản lần thứ 8. Bản dịch tiếng Việt. Nhà Xuất Bản Thống Kê. Hà Nội. 2008.

Kinh tế học : Hiệp định Maastricht 1991


Thị trường cạnh tranh hoàn toàn hầu như chỉ là một hình mẫu, không có thực đối với các nền kinh tế cạnh tranh hiện nay. Tuy nhiên nó là một cơ sở quan trọng, được sử dụng rộng rãi trong việc phân tích tính hiệu quả trong các điều kiện hạn chế nhất định, sự phân bố hiệu quả cao nhất các nguồn tài nguyên hạn chế của xã hội.

Cạnh tranh hoàn toàn là một mô hỉnh kinh tế về thị trường mang đặc tính là mỗi đơn vị kinh tế chỉ là rất nhỏ, đến nỗi nó không thể tác động được đến giá cả, hoặc sự tác động đó là không chủ ý. Sản phẩm được sản xuất ra là đồng nhất, có thể thay thế được hoàn toàn. Các doanh nghiệp có thể tự do tham gia và rời bỏ một cách dễ dàng.

Thu nhập biên của doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh hoàn toàn là giá của hàng hóa được bán ra và được thị trường chấp nhận tại mỗi số lượng hàng hóa bán ra.
Một sự thay đổi về mức bán ra trong một thời kỳ sẽ làm thay đổi tổng thu nhập của doanh nghiệp, nhưng không làm ảnh hưởng đến giá cả thị trường. Mối quan hệ giữa nhu cầu của riêng từng doanh nghiệp và giá cả được thị trường chấp nhận được minh họa ở hình bên dưới.

Q
P
TR
MR
1
4
4
4
2
4
8
4
3
4
12
4
4
4
16
4

Trong cạnh tranh hoàn toàn, đường cầu đối với doanh nghiệp nằm nganh là do:
§  Các sản phẩm của các hãng trong ngành đều có thể thay thế được cho nhau.
§  Quy mô của hãng là nhỏ, vì vậy không tác động được đến giá cả thị trường, mặc dù sản lượng có thể tăng lên hoặc giảm xuống.
Ví dụ: giá cả của thị trường chấp nhận là $4 / đơn vị.
thu nhập biên trên mỗi đơn vị là $4.
Vì thế đồ thị thu nhập biên và đồ thị nhu cầu là một đường nằm ngang ở mức giá $4.
Hãng sẽ không có lý do nào để tăng hoặc giảm giá:
+       Nếu tăng giá: sẽ bị các hãng khác thay thế.
+       Nếu giảm giá: lợi nhuận giảm đi.

Theo TS. Nguyễn Thuấn (2005). Kinh tế công cộng. Nhà xuất bản Thống Kê.

Kinh tế học : Đặc điểm của một thị trường cạnh tranh hoàn toàn là gì?


 Bài giảng môn học Tài chính tiền tệ của thầy Diệp Gia Luật

Download: TẠI ĐÂY
Qua học phần, sinh viên hiểu và nhận thức những kiến thức lý luận cơ bản về tài chính, tiền tệ, tín dụng và ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, làm nền tảng ứng dụng và nghiên cứu các môn nghiệp vụ thuộc chuyên ngành Kế toán- Kiểm toán và Kinh tế Phát triển.

Bài giảng môn học Tài chính tiền tệ của thầy Diệp Gia Luật


Bài giảng môn học Kinh tế Môi trường của thầy Phùng Thanh Bình - trường ĐH Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.

Download: TẠI ĐÂY

Kinh tế môi trường được thiết kế để giúp người học có thể hiểu được các mối liên kết giữa hoạt động kinh tế và môi trường, và ngược lại. Môn học sẽ giới thiệu các lý thuyết và công cụ có thể được sử dụng để hiểu và đo lường các mối liên hệ nói trên, giúp đưa ra các quyết định phù hợp, quản lý tốt nhất môi trường và tài nguyên thiên nhiên.

Author Name

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.