tháng 2 2011


Siêu lạm phát đặc biệt thú vị đối với những nhà nghiên cứu lạm phát do nó làm sáng tỏ những tác động hủy diệt của lạm phát. 
Hãy xem những lời mô tả lạm phát của phe Liên Bang trong thời Nội chiến (Mỹ):
Trước đây chúng tôi đã từng đi đến cửa hàng với tiền trong túi và trở về nhà với hàng hóa trong giỏ. Bây giờ, chúng tôi đi để tiền trong giỏ và trở về với hàng hóa trong túi. Mọi thứ đều khan hiếm, trừ mỗi tiền! Giá cả đảo lộn và sản xuất vô tổ chức. Một bữa ăn sáng trước kia vốn chỉ đắt bằng tiền vé một buổi xem nhạc kịch, giờ đây đã đắt gấp 20 lần. Mọi người đều muốn tích trữ “mọi thứ” và tìm cách đẩy đi những tờ tiến giấy “ tồi tệ” đã từng đuổi những đồng tiền kim loại “đẹp đẽ” ra khỏi lưu thông. Kết quả là quay trở về với một phần của sự bất tiện của trao đổi bằng hiện vật.


 Một trường hợp được ghi nhận chi tiết nhất về siêu lạm phát là ở nước cộng hòa Weimar của Đức vào những năm 1920. [...]
Từ tháng giêng 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá tăng từ 1 lên 10.000.000.000. Nếu một người sở hữu trái phiếu Đức trị giá 300 triệu đô la vào đầu năm 1922, thì hai năm sau, số tiền này không mua nổi một cái kẹo.

Các nghiên cứu đã phát hiện ra nhiều đặc điểm thường gặp của siêu lạm phát.
Thứ nhất, cầu thực tế về tiền (đo bằng trữ lượng tiền chia cho mức giá) giảm mạnh. Vào cuối thời kỳ siêu lạm phát của Đức, cầu tiền thực tế chỉ bằng một phần năm mươi mức cầu hai năm trước hàng đó. Mọi người gần như phát điên lên, vứt bỏ tiền của mình thể đó là củ khoai tây nóng bỏng trước khi họ chất bỏng vì đồng tiền mất giá.
Thứ hai, giá tương đối trở nên rất không ổn định. Trong điều kiện bình thường, tiền lương thực tế của một người chỉ xê dịch không quá 1% hàng tháng. Trong thời gian năm 1923, tiền lương thực tế của Đức thay đổi trung bình một phần ba (lên hoặc xuống) mỗi tháng. Sự thay đổi lớn này của lương thực tế và giá tương đối – cùng những bất bình đẳng và bóp méo do những biến động này gây ra – đã gây ra gánh nặng rất lớn cho công nhân và doanh nghiệp, bộc lộ rõ một trong những chi phí lớn của lạm phát.
[...]
Có lẽ một trong những ảnh hưởng rõ rệt nhất của siêu lạm phát là về sự phân phối của cải. Nhà kinh tế học người Anh là Lionel Robbins đã tổng kết những tác động đó:
Sự phá giá của đồng Mác.. đã phá hủy tài sản của những thành phần vững chắc trong xã hội Đức; nó để lại đằng sau những mất cân đối kinh tế và tinh thần, tạo tiền đề cho các thảm họa theo sau. Hitler là đứa con nuôi của lạm phát.

Theo Paul A Samuelson, Wiliam D. Nordhalls. 1948. Kinh tế học. Bản dịch tiếng Việt. 2007. Nhà xuất bản Tài Chính.

Kinh tế học : Siêu lạm phát ở nước cộng hòa Weimar của Đức vào những năm 1920

Sự ứng dụng của toán trong kinh tế không phải là một hiện tượng mới.  
Thật ra toán đã đóng vai trò đáng kể trong kinh tế học trên dưới một thế kỷ nay mặc dù các thuyết kinh tế cổ điển (classical economics) đã được phát triển và hệ thống hoá mà không cần dùng toán.  Lấy thí dụ, hai kinh tế gia cổ điển lớn nhất, Adam Smith và David Ricardo, chỉ dùng thí dụ bằng số để minh hoạ các lý thuyết của mình.  Họ phối hợp các quan sát thực tế một cách phi toán với các lý luận suy diễn về liên hệ nhân quả để giải thích hệ thống kinh tế làm việc như thế nào.

Ngay trong công trình của các kinh tế gia cổ điển vĩ đại cuối cùng như John Stuart Mill và Karl Marx, công thức toán hay đồ thị cũng chỉ là một loại tốc ký hay phương cách trình bày mà thôi.  Một ngoại lệ đáng kể là thuyết dân số của Thomas Malthus (1798) trong đó Malthus lập luận rằng dân số tăng theo cấp số nhân trong khi thực phẩm chỉ tăng theo cấp số cộng.

Ngày nay, phần lớn các nhà kinh tế đồng ý rằng Augustin Cournot, triết gia và toán gia Pháp, xứng đáng nhận lãnh danh hiệu “cha đẻ của kinh toán học”.  Cournot (1838) được coi là khai sinh ra kinh toán học vì ông đã hệ thống hoá sự ứng dụng ký hiệu, công thức và lý luận toán trong kinh tế.  Sau thời Cournot, hầu hết các kinh tế gia danh tiếng đều phải sử dụng toán, không ít thì nhiều, trong việc phát triển và truyền đạt các lý thuyết của mình.  Cournot được xem là một trong những kinh tế gia đầu tiên đã thành công trong việc thành lập một lý thuyết giá trị nhất quán qua các phân tích về tiêu thụ.  Một vài đóng góp cụ thể của ông cho kinh tế gồm có: ý niệm hàm và xác xuất trong phân tích kinh tế, hàm cầu, hàm cung, thuyết độc quyền và lưỡng độc quyền (duopoly). 

Kinh tế tân cổ điển khởi đầu với ba kinh tế gia: Stanley Jevon (Anh), Carl Menger (Áo) và Léon Walras (Pháp).  Ba kinh tế gia này thường được xem là ông tổ của “Cách mạng Biên tế” (Marginalist Revolution).  Danh từ biên tế liên quan đến kết quả toán của điều kiện biên tế cho cân bằng thị trường.  Quan trọng nhất trong ba kinh tế gia này là Walras, người được Joseph Schumpeter (1954: 827) xưng tụng là “kinh tế gia vĩ đại nhất”.  Lý do Walras được gọi như vậy là vì Walras (1874) đã khám phá ra lý thuyết cân bình tổng thể (general equilibrium theory).  Thuyết này giải thích quân bình của một hệ thống kinh tế thị trường qua quá trình điều chỉnh giá cả mà trong đó các tác nhân kinh tế riêng rẽ không thể ảnh hưởng lên giá thị trường.  Nói tóm gọn, Walras đã xếp đặt một chương trình nghiên cứu mà rất nhiều kinh tế gia thế kỷ 20 đã theo đuổi.  Cùng với học trò là Vilfredo Pareto, Walras sáng lập trường phái Lausanne, có thể xem là trường phái kinh toán đầu tiên trên thế giới.Cũng nên nhắc là thuyết lưỡng độc quyền của Cournot đánh dấu bước đầu nghiêm túc của thuyết trò chơi và giải pháp của Cournot là một hình thức hạn chế của cân bằng Nash. Các công trình của Cournot đánh dấu sự chuyển đổi từ kinh tế cổ điển qua kinh tế tân cổ điển (neoclassical economics) (xem Hildenbrand, 1982).  Cả hai thuyết đều quan tâm đến sản xuất, phân bố, trao đổi và tiêu thụ của cải (của cải theo nghiã hàng hoá).  Các kinh tế gia cổ điển chú ý đến sản xuất và phân phối của cải qua thời gian.  Họ nhấn mạnh tỷ lệ tăng truởng dân số và nguồn lực vật chất, và xem xét hậu quả của các nhân tố này lên tiến bộ kinh tế cũng như phúc lợi của nhân dân và xã hội.  Các kinh tế gia tân cổ điển ít quan tâm đến các khiá cạnh động.  Thay vào đó, họ đặt câu hỏi: “trong một nền kinh tế với dân số có sở thích, nguồn lực và kỹ thuật cho sẵn, làm sao các nguồn lực có thể phân phối qua một hệ thống thị trường để cực đại hoá sự thoả mãn của người tiêu thụ?”  Dùng thuật ngữ kinh tế ngày nay, sự chuyển đổi từ kinh tế cổ điển qua tân cổ điển là sự xê dịch từ phân tích kinh tế vĩ mô sang vi mô.  Đường hướng mới này (xem vấn đề quyết định cá nhân như một vấn đề tối ưu) có thể giải quyết một cách toán học bằng phương pháp giải tích.  Walras (1874) lý luận: “Chỉ có toán mới có thể giúp chúng ta hiểu ý nghiã của điều kiện hữu dụng tối đa (maximum utility)."
Từ khi kinh tế tân cổ điển xuất hiện đến nay, phấn lớn những đóng góp quan trọng nhất cho lý thuyết kinh tế là từ kinh tế gia có đầu óc toán học.  Những kinh tế gia này dều xem toán là cần thiết và không thể thiếu.  Hai ngoại lệ đáng chú ý là hai kinh tế gia Anh, Alfred Marshall và John Maynard Keynes. 

Marshall học và dạy toán tại Cambridge, trước khi chuyển sang kinh tế.  Tuy Marshall đã mang tính nghiêm túc của toán vào kinh tế, ông tỏ vẻ nghi ngờ vai trò của toán trong kinh tế.  Ông cho rằng các biến số thật trong đời sống quá nhiều và hổ tương với nhau (interrelated) do đó (i) các cố gắng toán hoá sẽ làm vấn đề quá phức tạp, không nghiên cứu được, và (ii) nếu phải bỏ sót để vấn đề có thể phân tích được, thì lời giải thích sẽ trở thành thiếu thực tế.  Trong sách Nguyên lý Kinh tế, Marshall (1890) giới hạn lý luận toán vào chú thich cuối trang, do ddó các lập luận trong văn bản đều là bằng lời.  Khá nhiều kinh tế gia cho rằng (i) Marshall không hoàn toàn thành thật khi phê bình như vậy, và (ii) thật ra muốn hiểu các lập luận của Marshall thật sâu người đọc phải biết nhiều hơn về toán hơn là Marshall thừa nhận (xem Hildenbrand, 1982: 66). 
Keynes, giống như Marshall, ban đầu được đào tạo để trở thành một nhà toán học và cũng nghi ngờ vai trò của toán trong kinh tế.  Keynes chỉ dùng một ít toán và lý luận rằng khả năng của toán trong việc thu hút nội dung của kinh tế rất là hạn chế.  Việc này dễ hiểu được vì quan tâm chính của Keynes là chính sách kinh tế và một kinh tế gia muốn phát biểu các dề xuất cho các vần đề kinh tế khẩn cấp, phải dùng ngôn ngữ càng ít toán càng tốt.  Nhưng cũng vì thế mà công trình vĩ đại nhất của Keynes (1936) có nhiều chỗ không rõ ràng và mâu thuẫn (có lẽ vì Keynes thay đổi các giả thiết ẩn tàng từ chương này qua chương khác).  Dù sao Keynes cũng dặt nền móng cho kinh tế vĩ mô hiện đại và mở màn cho một chương trình nghiên cứu thúc đẩy vai trò của toán trong kinh tế và ứng dụng của toán trong các công trình thực nghiệm.    
Để có một cái nhìn khách quan và toàn diện hơn, chúng ta cũng nên xét qua vài thí dụ về các ứng dụng toán không thành công lắm trong kinh tế.  Trong thế kỷ 20, các công trình kinh toán to lớn nhất xuất hiện sau Thế chiến Thứ hai.  Trong phạm vi bài này, tôi chỉ xin nêu ra, một cách ngắn gọn, ba thí dụ tiêu biểu nhất.  Thứ nhất, Paul Samuleson, lý thuyết gia kinh tế lỗi lạc nhất của thế kỷ 20.  Samuelson (1947) được nhiều người xem là cha đẻ của kinh toán học hiện đại qua cuốn sách Nền tảng của Phân tích Kinh tế.  Cuốn sách này, rút ra từ luận án tiến sĩ năm 1941 của Samuelson, dùng ngôn ngữ toán nghiêm túc thống nhất các thuyết kinh tế bằng một vài nguyên lý cơ bản, và đặt nền tảng cho các nghiên cứu kinh toán hiện đại.  Nhờ ảnh hưởng của Samuleson, trọng tâm nghiên cứu kinh toán học đã dần chuyển từ Âu châu sang Bắc Mỹ. Thí dụ thứ nhì là mô hình cạnh tranh hoàn hảo Arrow–Debreu–McKenzie (ADM), dựa trên các công trình của Arrow & Debreu (1954) và Lionel McKenzie (1954).  Mô hình ADM là mô hình trung tâm của lý thuyết cân bình tổng thể và thường được dùng làm một tham khảo tổng quát cho các mô hình kinh tế vi mô khác.  So sánh với các mô hình trước đó, mô hình ADM dùng một ý niệm hàng hoá rất tổng quát, phân biệt hàng hoá bằng không gian lẫn thời gian.  Dưới một số giả thiết nhất định, Arow và Debreu đã dùng vị tướng học (topology), thay vì giải tích, để chứng minh sự hiện hữu của một cân bình tổng thể của thị trường cạnh tranh hoàn hảo (tức là cân bình Walras).  Điều đáng chú ý là Debreu từng là một thành viên của nhóm toán gia lừng danh Bourbaki và đã dùng phương pháp tiên đề trong các nghiên cứu kinh tế của ông. Thí dụ thứ ba là lý thuyết trò chơi.  Tuy có nhiều người đã thảo luận một số ý niệm về thuyết trò chơi trước đó, nhà bác học von Neumann thường được xem là cha đẻ của thuyết trò chơi vì ông đã phát triển khá hoàn hảo và phổ thông hoá thuyết này (xem von Neumann và Morgenstern, 1944).  Von Neumman đề xuất thuyết trò chơi như một thứ ngôn ngữ mới dùng để biểu diễn và giải quyết các vấn đề kinh tế một cách chính xác.  Lối tư duy mới này nhấn mạnh sự tương tác chiến lược giữa các tác nhân kinh tế (cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ, vv).  Như vậy, lý thuyết cân bình tổng thể có thể xem là một trường hợp đặc biệt của thuyết trò chơi.  Tác phẩm chung của von Neumann và Morgenstern đã cách mạng hoá bộ môn kinh tế và nghiên cứu trong kinh tế.  Tuy rằng cuốn sách này viết riêng cho các nhà kinh tế, sự ứng dụng của thuyết trò chơi trong tâm lý học, xã hội học, chính trị học, chiến tranh, các trò chơi giải trí, v.v. trở nên rõ ràng khá nhanh sau đó. Ngoài von Neumann, nhiều toán gia khác cũng tìm cách ứng dụng toán thuần lý vào lĩnh vực kinh tế trong hậu bán thế kỷ 20.  Nổi tiếng nhất có lẽ là toán gia Steve Smale, người thắng Huy chương Field năm 1966 (một phần vì đã chứng minh Ước đoán Poincaré cho trường hợp n ³ 5).  Smale đã đóng góp rất nhiều cho lý thuyết kinh tế trong thập kỷ 1970.  Ông đã thành công trong việc mang giải tích toàn bộ, vị tướng học và động học vào những nghiên cứu về cân bình kinh tế tổng quát.
Hai thí dụ tiêu biểu nhất có lẽ là thuyết tai biến (catastrophe theory) và thuyết hỗn độn (chaos theory).  
Sau nhiều thập kỷ phát triển dần dần, thuyết tai biến chính thức xuất hiện vào đầu thập kỷ 1970 qua những công trình đột phá của René Thom (1969). Sau đó, thuyết tai biến đã được áp dụng trong khá nhiều nghiên cứu kinh tế, thí dụ như thị trường chứng khoán, thị trường độc quyền, chu trình kinh tế, mô hình lạm phát, đầu cơ hối suất, thuyết tăng trưởng, kinh tế thành phố và vùng, kinh tế sinh thái, vv (xem Rosser 2007).  
Vào cuối thập kỷ 1970, nhiều tác giả bắt đầu chỉ trích sự lạm dụng của thuyết tai biến (không phải chỉ trong kinh tế) vì ba lý do chính như sau: (i) thuyết tai biến dựa quá nhiều trên các phương pháp định tính, (ii) nhiều ứng dụng đòi hỏi các định lượng hoá giả mạo hay phương pháp thống kê không thích hợp, và (iii) rất nhiều mô hình không thoả những điều kiện toán cần cho thuyết tai biến.  Cũng vì thế mà trong thập kỷ 1990, gần như không có bài nghiên cứu nào đăng trong các tạp chí kinh tế hàng đầu dám nhắc đến thuyết tai biến.  Ngày nay, phần đông các nhà kinh tế có một cái nhìn đúng đắn và lạc quan hơn về thuyết tai biến.  Tuy không phải là kỹ thuật tổng quát có thể dùng cho mọi trường hợp, thuyết tai biến vẫn đóng một vai trò nhất định nào đó trong việc nghiên cứu hiện tượng bất liên tục động trong kinh tế (Roser 2007).
Giống như thuyết tai biến, thuyết hỗn độn có nguồn gốc sâu xa từ những công trình nghiên cứu về toán và cơ học thiên thể của “toán gia phổ quát cuối cùng” Henri Poincaré vào cuối thế kỷ 19.  Poincaré nhận thấy rằng các hệ thống xác định, động, phi tuyến, đơn giản (simple nonlinear dynamic deterministic systems) dưới một số điều kiện nào đó tiến hoá một cách có vẻ như ngẫu nhiên, phức tạp.  Những hệ thống này rất nhạy cảm với điều kiện ban đầu và do đó dự đoán dài hạn với bất kỳ độ chính xác nào đòi hỏi các điều kiện ban đầu được định rõ tới mức chính xác vô cực.  Bắt đầu từ giữa thập kỷ 1970, thuyết hỗn độn đã được áp dụng vào rất nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau (xem Baulmol & Benhabib 1989).  Ứng dụng của thuyết hỗn độn trong kinh tế gây ra vài trở ngại chính như sau.  Thứ nhất, sự có mặt của hỗn độn làm dự đoán dài hạn không khả thi, và người dự báo sẽ phải trả giá cực kỳ cao nếu chỉ muốn tăng tầm xa dự báo lên chút ít.Tính không dự đoán dài hạn này cũng trái ngược với giả thiết kỳ vọng hợp lý (rational expectations), một ý niệm cơ bản trong các lý thuyết kinh tế hiện đại.  Thứ hai, quan trọng hơn, các nhà nghiên cứu chưa tìm được bằng chứng có tính thuyết phục về sự hiện diện của hỗn độn xác định trong các chuỗi dữ kiện kinh tế thời gian.  Nếu như thế, các nhà kinh tế có nên tiếp tục bỏ công sức vào thuyết hỗn độn hay nên khảo sát các dạng động lực phi tuyến khác với khả năng tiên đoán tốt hơn?  Tuy nhiên, thuyết hỗn độn nói chung không bị các nhà kinh tế tránh né như thuyết tai biến.  Một số nhà kinh tế cho rằng thuyết hỗn độn vẫn cần cho lý thuyết kinh tế, nhưng các dụng cụ và phương pháp nghiên cứu phải khác hơn những kỹ thuật dùng trong quá khứ.

Theo giám đốc Hội đồng vàng thế giới (WGC), triển vọng nhu cầu vàng Ấn Độ khá tích cực sau khi nhập khẩu vàng tăng gần 30% trong quý vừa qua. Trong khi đó, chính phủ Ấn Độ đã quyết định nâng thuế nhập khẩu vàng bắt đầu từ ngày 28/02/2011.

Ông Ajay Mitra, giám đốc điều hàng của WGC tại Trung Đông và Ấn Độ, nói: “Triển vọng hết sức tích cực. Năm 2011 đã khởi đầu đầy tốt đẹp. Tháng 1/2011 tốt hơn tháng 1/2010. Nhu cầu sẽ ở mức cao.”

Trong quý 4/2010, nhập khẩu ròng vàng của Ấn Độ tăng gần 30% bởi người tiêu dùng tại Ấn Độ vẫn mua mạnh bất chấp giá vàng liên tục ở mức rất cao.

Ông Mitra nói: “Chúng tôi đã có một quý 4 thật tốt đẹp nếu so với các nước châu Á và phương Tây khác. Nhu cầu đầu tư vàng trong lĩnh vực ETF tăng lên. Người tiêu dùng Ấn Độ vẫn mua vàng dù giá ngày một tăng."

Tại thị trường nội địa, giá vàng giao tháng 4/2011 chạm mức kỷ lục 21.101 rupee/10 gram đầu tháng 12/2010.  Tuy nhiên, nhu cầu vàng của Ấn Độ- ở mức 16% nhu cầu toàn cầu trong năm 2009- vẫn tăng lên mức 25% và trở thành nước mua vàng nhiều nhất thế giới với 20% thị phần toàn cầu.

So với cùng kỳ năm trước, trong khoảng thời gian 1 quý kết thúc ngày 31/12/2010, nhu cầu vàng trang sức của Ấn Độ tăng 47% lên 201,5 tấn.

Hiện nay, khi mùa thu hoạch đã kết thúc, người nông dân có nhiều thu nhập hơn vì thế họ có thêm tiền để mua vàng. Mùa cưới của Ấn Độ đã bắt đầu và thường kéo dài đến tháng 5/2011.

WGC cũng cho biết thêm, lực mua vàng Châu Á sẽ nâng nhu cầu vàng năm 2011 lên cao. "Nhu cầu vàng dự kiến vẫn ở mức cao năm nay khi nhu cầu vàng từ Trung Quốc và Ấn Độ vẫn mạnh, tuy nhiên lực mua mới từ các thị trường trang sức phát triển sẽ phụ thuộc vào triển vọng kinh tế nói chung."

Trong báo cáo về xu hướng nhu cầu vàng năm 2010, WGC cho biết nhu cầu vàng đã chạm mức cao 10  năm là 3,812.2 tấn trong năm 2010 khi những người mua vàng trang sức quay trở lại thị trường còn các ngân hàng TW trở thành những nhà mua ròng vàng.

 Eily Ong, giám đốc điều hành WGC cho biết “Tôi cho rằng triển vọng trên thị trường vàng cho cả năm 2011 rất tốt. Hai thị trường lớn nhất, Trung Quốc và Ấn Độ tiếp tục thúc đẩy thị trường. Mức thu nhập tăng, lãi suất tiết kiệm cao, tôi cho rằng tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ vàng”.

Theo Tinkinhte.com


Công nghiệp được thừa nhận là ngành chủ đạo của nền kinh tế, thể hiện qua:

1.Công nghiệp tăng trưởng nhanh và làm gia tăng nhanh thu nhập quốc gia
Năng suất lao động của khu vực công nghiệp cao hơn hẳn các ngành kinh tế khác, mà năng suất lao động là yếu tố quyết định nâng cao thu nhập, thúc đẩy nhanh tăng trưởng công nghiệp và đóng góp ngày càng lớn vào thu nhập quốc gia. Công nghiệp có vai trò quan trọng này là do thường xuyên đổi mới và ứng dụng công nghệ tiên tiến, hơn nữa, giá cả sản phẩm công nghiệp thường ổn định và cao hơn so với các sản phẩm khác ở cả thị trường trong và ngoài nước.

2.Công nghiệp cung cấp tư liệu sản xuất và trang bị kĩ thuật cho các ngành kinh tế
Xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm công nghiệp, một bộ phận sản phẩm công nghiệp sản xuất có chức năng là tư liệu sản xuất. Do đó, nó còn là ngành tạo ra tác động hiệu quả dây chuyền đến các ngành kinh tế khác và tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật của nền kinh tế.


3.Công nghiệp cung cấp đại bộ phận hàng tiêu dùng cho dân cư
Nông nghiệp cung cấp những sản phẩm tiêu dùng thiết yếu đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người. Công nghiệp khác hơn, cung cấp những sản phẩm tiêu dùng ngày càng phong phú và đa dạng (ăn, mặc ở, đi lại, vui chơi, giải trí...). khi thu nhập dân cư tăng gắn với quá trình phát triển kinh tế thì nhu cầu con người lại cao hơn và mới hơn. Chính sự phát triển của công nghiệp mới đáp ứng những nhu cầu thay đổi này và đồng thời nó lại hướng dẫn tiêu dùng của con người.

4.Công nghiệp cung cấp nhiều việc làm cho xã hội
Dưới tác động của công nghiệp, năng suất lao động nông nghiệp được nâng cao tạo điều kiện dịch chuyển lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp, nhưng không ảnh hưởng đến sản lượng nông nghiệp. Sự phát triển của công nghiệp làm mở rộng nhiều ngành sản xuất mới, khu công nghiệp mới và cả các ngành dịch vụ đầu vào và đầu ra sản phẩm công nghiệp, và như vậy thu hút lao động nông nghiệp và giải quyết việc làm cho xã hội.

5.Công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp phát triển
Vì công nghiệp cung cấp cho nông nghiệp những yếu tố đầu vào quan trọng như phân bón hóa học, thức ăn gia súc, thuốc trừ sâu bệnh, máy móc, phương tiện vận chuyển làm tăng năng suất. Hơn nữa, công nghiệp còn góp phần làm tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp, bằng cách cho phép vận chuyển nông sản nhanh chóng tới thị trường tránh hư hỏng, tăng gia sản xuất nhiều hơn; bảo quản, dự trữ lâu hơn để chờ cơ hội tăng giá...
Mặt khác, công nghiệp còn có vai trò rất lớn trong việc tạo ra cơ sở hạ tầng, làm thay đổi bộ mặt nông thôn.

Theo Ts. Đinh Phi Hổ, Ts. Lê Ngọc Uyển, Ths. Lê Thị Thanh Tùng. 2009.
Kinh tế phát triển: Lý thuyết và thực tiễn.
Nhà xuất bản Thống Kê. TP. Hồ Chí Minh.

Kinh tế học :  Vai trò của công nghiệp trong phát triển kinh tế


Chủ nghĩa Marx cho những nhà hoạch định kế hoạch tập trung

Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, các nhà kinh tế thường tranh cãi về những giá trị tương đối của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, Liên Xô từ bỏ kế hoạch hóa tập trung theo chủ nghĩa Marx sau năm 1990 và bắt đầu quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Năm 2003 các cổ động viên của các câu lạc bộ bóng đá Chelsea chào đón ông chủ mới Rorman Abramovitch người đi lên trong kinh tế thị trường, bắt đầu là một nhà buôn bán dầu mỏ và sau đó là chủ tịch một trong những công ty dầu mỏ hàng đầu ở Nga.


 Bức tường Berlin sụp đổ vì Liên Xô đã tụt hậu xa so với các nền kinh tế thị trường ở phương Tây. Những khó khăn cốt yếu nảy sinh là:

§  Quá tải thông tin:
Các nhà hoạch định kế hoạch không thể theo kịp chi tiết của những hoạt động kinh tế. Máy móc thiết bị bị gỉ sét vì không có người lắp đặt sau khi giao hàng, mùa màng thu hoạch bị thối rữa vì lưu kho và phân phối không phối hợp được.

§  Động lực kém:
Việc đảm bảo việc làm tuyệt đối làm giảm động cơ làm việc. Những người quản lý các nhà máy đặt hàng nguyên vật liệu vượt quá số lượng cần thiết để đảm bảo nguyên vật liệu cho năm kế tiếp vì các nhà hoạch định kế hoạch có thể điều hành số lượng dễ dàng hơn so với chất lượng nên các doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu mục tiêu số lượng bằng cách bỏ qua yêu cầu chất lượng. Thiếu những tiêu chuẩn về môi trường, các doanh nghiệp gây ô nhiễm nghiêm trọng. Kế hoạch hóa tập trung dẫn đến hàng hóa chất lượng thấp và làm hại cho môi trường.

§  Cạnh tranh phi hiệu quả:
Các nhà hoạch định kế hoạch tin tưởng rằng to lớn là tốt đẹp. Nhưng quy mô lớn làm các nhà hoạch định kế hoạch mất thông tin từ các hãng cạnh tranh, nên rất khó đánh giá hiệu quả. Thiếu sự cạnh tranh để chọn lựa thì không thể tránh được những sai lầm kinh tế.

Theo David Begg, Stanley Fischer, Rudiger Dornbusch. Kinh tế học. Bản dịch tiếng Việt, phiên bản thứ 8. 2008. Nhà xuất bản Thống Kê. Hà Nội.

Kinh tế học : Vì sao Liên Xô tan rã ?

Hiện nay, nhu cầu cây xanh cao nhất chủ yếu cho văn phòng hay hộ gia đình?



Ai cũng biết cây xanh giúp không khí trong sạch và tinh thần con người thoải mái. Việc chọn loại cây gì phù hợp với không gian gia đình, khuôn viên trường học, hay văn phòng... không phải là khó, nhưng không phải khi nào người bán cũng tư vấn đúng (có thể không theo quan điểm của họ nữa). Một chút kiến thức về cây trồng, phong thủy, giá cả sẽ thực sự có ích cho người tiêu dùng.

Tags:
Cay xanh van phong, cay de ban, cay xanh, cay noi that, cay ngoai that, cay xanh van phong san long phuc vu, cay canh, cay kieng, cac loai cay, cay trong, cay xanh van phong cay xanh van phong, cay de ban, cay xanh, cay noi that, cay ngoai that, cay xanh van phong san long phuc vu, cay canh, cay kieng, cac loai cay, cay trong, cay xanh van phong, cay thuy sinh, cay trong trong nha, cay trong ngoai troi, cay coi loi cho suc khoe, cay xanh, cay canh gia re, chon lua cay xanh van phong nhu the nao, cung cap cay xanh van phong, mua ban cay xanh, cay xanh van phong, cay kieng bo chay, cham soc cay xanh van phong, chon cay xanh van phong theo phong thuy, mua cay xanh van phong gia re o dau

Nguyên tắc thận trọng là nguyên tắc xem xét, cân nhắc, phán đoán cần thiết để lập các ước tính trong các điều kiện không chắc chắn. Nguyên tắc này đòi hỏi:
  • Phải lập các khoản dự phòng nhưng không quá lớn
  • Không đánh giá quá cao giá trị tài sản và các khoản thu nhập
  • Không đánh giá thấp hơn giá trị các khoản nợ phải trả và chi phí
  • Doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có bằng chứng về khả năng thu được lợi ích kinh tế, còn chi phí phải được ghi nhận khi có bằng chứng về khả năng phát sinh chi phí.

Nguyên tắc thận trọng là gì ?

Author Name

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.