tháng 3 2011


Trong công ty cổ phần, chủ sở hữu là các cổ đông thường. Chỉ tiêu thể hiện thu nhập của các cổ đông:
Lãi ròng trong công thức tính ROE chính là tổng thu nhập của cổ đông thường. Vì vậy, nếu trong báo cáo thu nhập có ‘lãi tức cổ phần ưu đãi’ thì phải dùng ‘tổng thu nhập của cổ đông thường’ ( = ‘lãi ròng’ – ‘lãi suất cổ phần ưu đãi’).

Ví dụ:
Thông tin ở một công ty cổ phần như sau:
Tổng tài sản cần cho hoạt động 5 triệu đô, công ty đang xem xét 2 phương án tài trợ:
(1) Tài trợ 100% bằng vốn cổ phần thường
(2)  Tài trợ bằng nợ và vốn cổ phần thường với mức độ nợ 80%
Mệnh giá 1 cổ phần bằng 50 đô, lãi suất vay nợ 10%/năm, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 40%. EBIT dự kiến đặt được 1 triệu đô.
Hãy tính EPS và ROE cho 2 phương án trên.

Xem Lời giải 

 Chỉ tiêu nào thể hiện thu nhập của các cổ đông ?


Kinh tế môi trường nghiên cứu các vấn đề về môi trường với cách nhìn và phương pháp phân tích của kinh tế học. Bạn có thể vẫn nghĩ rằng kinh tế học hầu như chỉ nói về các quyết định trong kinh doanh và làm thế nào để có được lợi nhuận trong hệ thống tư bản chủ nghĩa. Điều này không đúng trong trường hợp này.


Kinh tế học nghiên cứu tại sao và làm thế nào mà con người – có thể là người tiêu thụ, nhà sản xuất, các tổ chức phi lợi nhuận hay các cơ quan nhà nước – đưa ra các quyết định sử dụng các nguồn tài nguyên có giá trị.
Kinh tế học được chia thành kinh tế vi mô – nghiên cứu hành vi của các cá nhân hay các nhóm nhỏ và kinh tế vĩ mô – nghiên cứu hoạt động kinh tế của toàn bộ nền kinh tế.
Kinh tế môi trường có nguồn gốc từ cả hai chuyên ngành này, nhưng chủ yếu vẫn là từ kinh tế vi mô. Nghiên cứu kinh tế môi trường, cũng giống như tất cả các môn kinh tế học khác, quan tâm đến vấn đề cơ bản là phân phối các nguồn tài nguyên khan hiếm cho các mục dích sử dụng có tính cạnh tranh. Các khái niệm về sự khan hiếm, chi phí cơ hội, sự đánh đổi, lợi ích biên là chìa khóa để hiểu các vấn đề môi trường và cách thức giải quyết các vấn đề đó.

Kinh tế môi trường sử dụng những khái niệm quen thuộc trong kinh tế học. Sự khác biệt giữa kinh tế môi trường với các môn học kinh tế khác nằm ở chỗ kinh tế môi trường tập trung nghiên cứu xem các hoạt động kinh tế ảnh hưởng như thế nào đến môi trường tự nhiên – không khí, nước, đất và vô số các loài sinh vật. Các quyết định kinh tế của con người, các nhà sản xuất và chính phủ có thể gây ra những ảnh hưởng có hại đến môi trường tự nhiên. Việc chôn lấp chất thải rắn vào môi trường tự nhiên đã tạo ra ô nhiễm và suy thoái các hệ sinh thái. Điều đó dẫn đến việc sử dụng các nguồn tài nguyên không tối ưu.
Tại sao điều này lại xảy ra trong hệ thống kinh tế? Tại sao con người không tính đến các ảnh hưởng từ hoạt động kinh tế lên môi trường thiên nhiên? Kinh tế môi trường sẽ trả lời các câu hỏi này. Điều quan trọng không kém là kinh tế môi trường nghiên cứu và đánh giá các phương cách khác nhau để đạt được mục đích sử dụng tối ưu xã hội tất cả các nguồn tài nguyên, trong đó có tài nguyên môi trường.

Kinh tế học : Kinh tế môi trường là gì ? 

Hiểu được thấu đáo luật hấp dẫn chính là chìa khóa để tạo ra một cuộc sống như bạn mong ước
Luật hấp dẫn là quy luật quyền năng nhất trong vũ trụ. Cũng giống như trọng lực, nó luôn phát huy tác dụng và luôn chuyển động. Ngay chính lúc này, nó cũng đang vận hành trong cuộc sống của bạn.
 
Nói một cách đơn giản, theo luật hấp dẫn, bạn sẽ hấp dẫn tất cả những gì bạn tập trung vào. Bất cứ việc gì bạn dành công sức vào đều quay trở lại với bạn. vì thế, nếu bạn tập trung vào những điều tốt đẹp và tích cực, tự nhiên bạn sẽ thu hút được thêm thật nhiều những điều tốt đẹp và tích cực vào cuộc sống của mình. Nếu bạn chỉ quan tâm đến những điều thiếu thốn và tiêu cực thì đó sẽ chính là những thứ sẽ được “hút” vào cuộc sống của bạn.

"Bạn sẽ trở thành điều mà bạn nghĩ đến suốt cả ngày"
Tiến sĩ Robert Schuller
(Là diễn giả, một người truyền cảm hứng và là nhà văn nổi tiếng vì khả năng khuyến khích và truyền cảm hứng được hàng triệu người trên khắp thế giới ngưỡng mộ và đánh giá cao)

Bạn luôn ở trong trạng thái sáng tạo. Bạn vẫn luôn như thế. Bạn vẫn đang tạo ra thực tế của chính mình trong từng khoảnh khắc hằng ngày. Bạn đang kiến tạo nên tương lai của mình thông qua mỗi một suy nghĩ đơn lẻ, cả trong nhận thức và tiềm thức. Bạn không thể tránh hay quyết định không sáng tạo được vì sự sáng tạo diễn ra không ngừng. Luật hấp dẫn không bao giờ ngừng hoạt động.

Vì vậy, việc hiểu được cách thức hoạt động của quy luật này chính là chìa khóa cốt lõi giúp bạn có được thành công. Nếu muốn thay đổi cuộc sống và tự trao quyền cho mình để có thể tạo ra một tương lai đầy hứa hẹn, bạn cần phải hiểu được vai trò của mình trong luật hấp dẫn.

Và đây là quy luật hoạt động của nó: "Cái gì giống nhau thì hấp dẫn lẫn nhau" (Like Attract Like). Nếu bạn cảm thấy hào hứng, nhiệt tình, đam mê, hạnh phúc, thú vị, muốn đánh giá, thưởng thức hay giàu có nghĩa là bạn đang phát đi những năng lượng tích cực. Ngược lại, nếu bạn cảm thấy chán nản, buồn bã, lo lắng, căng thẳng, giận dữ hay phẫn uất có nghĩa là bạn đang phát đi những năng lượng tiêu cực. Vũ trụ, thông qua luật hấp dẫn, sẽ phản ứng lại với cả hai trạng thái rung cảm này. Tất nhiên nó không thể quyết định cái nào tốt hơn bạn, mà chỉ có thể phản ứng lại bất cứ nguồn năng lượng nào mà bạn tạo ra, và nó thường mang lại cho bạn những điều giống như những gì bạn đã tạo ra, nhưng còn nhiều hơn thế. Bạn sẽ nhận lại được đúng thứ mà bạn đã gửi đi. Bất cứ suy nghĩ hay cảm xúc nào của bạn trong một khoảng thời gian nhất định, về cơ bản, đều là những yêu cầu bạn gửi tới thế giới, tới vũ trụ để có được nhiều hơn những điều giống thế.

Sóng não
(Mỗi suy nghĩ mà bạn phát ra đều có những xung động dưới dạng sóng gửi vào thế giới xung quanh)

Vì những năng lượng rung cảm của bạn sẽ hút một lượng năng lượng với mức độ tương tự trở lại với bạn, nên bạn cần phải chắc chắn rằng mình vẫn đang phát đi những năng lượng, suy nghĩ và tình cảm phù hợp với hình ảnh con người mà bạn muốn trở thành, với điều mà bạn muốn làm và muốn trải nghiệm. Tần số năng lượng của bạn cần phải tương thích với điều bạn muốn hấp dẫn trong cuộc sống. Nếu điều bạn muốn hấp dẫn là tình yêu và niềm vui thích thì điều bạn cần phải thường xuyên tạo ra là những rung cảm yêu thương và thích thú.

Hãy tưởng tưởng điều đó theo cách này: nó rất giống việc phát và nhận sóng radio. Tần số của bạn phải phù hợp với tần số của những điều bạn muốn nhận. Bạn không thể dò sóng ở tần số 99,9 Mhz của đài FM mà lại trông chờ bắt đượng sóng của tần số 103,3 Mhz được. Chuyện đó là không tưởng. Năng lượng của bạn cần phải đồng nhịp hoặc phù hợp với năng lượng của người gửi. Vì vậy bạn cần phải điều chỉnh những rung cảm của mình luôn ở tần số tích cực thì mới có thể hấp dẫn được những nguồn năng lượng tích cực cho mình.


Âm thoa là một ví dụ điển hình khác. Khi bạn dò âm thoa, bạn cần khởi động nó để phát đi một âm thanh hay một tần số đặc biệt. Và nếu trong phòng có rất nhiều âm thoa khác nhau thì chỉ những âm thoa nào có được điều chỉnh ở cùng tần số mới có sự tương tác, giao thoa lẫn nhau. Chúng sẽ tự động liên kết và phản ứng với những tần số tương thích với tần số của chúng. Vì vậy, vấn đề ở đây là bạn phải điều chỉnh bản thân sao cho có thể cộng hưởng được với tần số phù hợp với điều mà bạn muốn hấp dẫn. Để tạo ra được một tương lai tươi sáng, tích cực, bạn cần phải giữ cho sinh lực, suy nghĩ và cảm xúc của mình trong “vùng tích cực”.
Bạn có thể học cách điều khiển suy nghĩ và cảm xúc của mình cũng như duy trì những rung cảm tương thích với điều mà bạn muốn hấp dẫn bằng cách học tương tác với, thay cho phản ứng lại những tình huống xảy ra trong cuộc sống của bạn. Hầu hết chúng ta sống đơn giản là phản ứng một cách tự động và hoàn toàn vô thức với những sự vật, sự việc diễn ra xung quanh chúng ta. Có thể bạn có một ngày khó chịu, có thể xe bạn bị thủng xăm, hoặc có thể có ai đó đối xử bất công với bạn. Giả sử bạn phản ứng lại những tình huống theo cách tiêu cực (thông qua suy nghĩ, tình cảm chẳng hạn), bạn có thể trở nên giận dữ, bực bội và khó chịu. Trong trường hợp này, bạn đang phản ứng lại một cách hoàn toàn vô thức với tình huống, chứ không phải tương tác một cách có ý thức với nó, và những suy nghĩ cảm xúc mang hơi hướng tiêu cực này sẽ mặc nhiên “đặt hàng” thế giới, vũ trụ cho bạn nhiều hơn nữa những điều tiêu cực tương tự. Để có được một kết quả tích cực, bạn cần phải học cách tương tác một cách có ý thức theo những cách tích cực hơn.

"Nếu bạn chỉ làm những điều mà bạn vẫn luôn làm, bạn cũng chỉ nhận được những điều mà bạn vẫn nhận được mà thôi."
Anthony Robbins

Có một tin đáng mừng là khi bạn đã hiểu được luật hấp dẫn và cách vận hành nó, bạn có thể bắt đầu tạo ra cuộc sống tốt hơn một cách có chủ ý và trí tuệ. Bạn có thể chọn những cách tương tác khác nhau với những tình huống phát sinh trong ngày của bạn. Bạn cũng có thể chọn cách nghĩ khác đi. Bạn cũng có thể chọn cách tập trung và chỉ suy nghĩ về những thứ mà bạn muốn có nhiều hơn trong cuộc sống của mình. Bạn có thể chọn trải nghiệm nhiều hơn những điều khiến bạn thấy dễ chịu. Bạn cũng có thể chọn để được tham dự một cách có chủ ý vào quá trình kiến tạo nên tương lai của mình bằng cách điều khiển suy nghĩ và tình cảm của bản thân.

"Tương lai của bạn được tạo nên bởi những điều bạn làm trong ngày hôm nay, chứ không phải trong ngày mai."
Robert Kiyosaki
(Tác giả bộ sách Bestseller Richdad Poordad)

Hãy trông chờ vào những điều kỳ diệu
Luật hấp dẫn sẽ mang lại những khả năng vô tận, sự giàu có vô tận và niềm vui vô tận. trong luật hấp dẫn không có cái gọi là khó khăn, và nó có thể thay đổi cuộc sống của bạn theo bất kỳ cách nào.
Để hiểu thấu đáo Luật hấp dẫn họat động như thế nào trong cuộc sống của bạn, chúng ta cần phải xem xét một vài vấn đề...

"Vũ trụ luôn thay đổi, cuộc sống của chúng ta do chính suy nghĩ của chúng ta tạo nên."
Marcus Aurelius Antoninus

Nguồn: LuatHapDan.com

Bài học thành công : Luật hấp dẫn có ý nghĩa như thế nào

Các nhà kinh tế là nguồn cảm hứng cho tài chính hiện đại
Lý thuyết về cơ cấu đầu tư là trọng tâm của một trong những lĩnh vực sôi động và phổ biến nhất của kinh tế học bậc trung: tiền tệ và ngân hàng. Phân tích này sử dụng một khung lý thuyết giống như lý thuyết thỏa dụng. Nó giả định rằng, mọi người đều thích thu được lợi nhuận cao từ các tài sản nhưng lại không thích những tài sản nhiều rủi ro.
Công trình của hai nhà bác học được giải thưởng Nobel là Harry Markowits vàJames Tobin đã chứng tỏ rằng, những người tiêu dùng tối đa hóa thỏa dụng của mình sẽ dàn trải của cải của họ (đa dạng hóa cơ cấu đầu tư) vào nhiều tài sản có độ rủi ro khác nhau.
 
 William F. Sharpe
Nguồn: http://www.frdelpino.es/
  
Những nghiên cứu trong lĩnh vực này đã trở nên hết sức quan trọng trong lý thuyết tài chính hiện đại và được thể hiện dưới hình thức hiện đại của nó trong nghiên cứu về “Mô hình định giá tài sản vốn”, công trình mà nhờ đó William Sharpe đã giành được giải thưởng Nobel về kinh tế học năm 1990. Tất cả các nhà quản lý cơ cấu đầu tư giỏi của Phố Wall dùng những kĩ thuật này để luyện trực giác của mình trong việc lựa chọn cố phiếu và trái phiếu đầu tư.

Theo Paul A. Samuelson, Wiliam D. Nordhalls. 1948. Kinh tế học. Bản dịch tiếng Việt. 2007. Nhà xuất bản Tài Chính.

Kinh tế học : Lý thuyết về cơ cấu đầu tư là gì?


Các nhà lý thuyết trong trường phái Tân cổ điển (Neo - Classical), Tiền tệ (Monetarism) và cả Cổ điển mới (New Classical) đều có một giả định chung rằng thị trường là cân bằng một cách liên tục (continuous market – clearing). Cơ sở của giả định này là dựa vào tốc độ điều chỉnh của giá và lượng trong nền kinh tế có thể diễn ra rất nhanh. Tuy nhiên, tất cả họ đều bỏ qua một khả năng khác là sự điều chỉnh luôn có độ trễ bởi có yếu tố cứng nhắc (rigidity) trong tiền lương và mức giá ở ngắn hạn. 

Nguồn: http://i.dailymail.co.uk

 Những nhà kinh tế sử dụng tính chất này để tấn công giả định trên gọi là trường phái Keynes mới (New Keynesian). Những đại diện cho trường phái này là George Akerlof, Janet Yellen, Josheph E. Stiglitz, Robert J. Jordon, John B. Taylor, N. Gregory Mankiw, Guillermo Calvo, Olivier Blanchard và Julio Rotemberg.
Họ đã sử dụng những công cụ kinh tế vi mô nhằm bảo vệ các giả định chính thống của Keynes như giá và tiền lương là cố định trong ngắn hạn cũng như phản bác lại thị trường là có sự cân bằng liên tục.

Kết luận của nhóm này vẫn đồng ý rằng trong dài hạn, lạm phát là một hiện tượng tiền tệ, song trong ngắn hạn không phải lúc nào giá cả cũng biến động ngay khi có các cú sốc về phía cầu. Bởi việc thay đổi giá một cách liên tục có thể tạo ra chi phí mà họ gọi là chi phí thực đơn (menu cost). Và ngay cả có sự thay đổi giá đi chăng nữa thì các cá nhân cũng không thay đổi nó một cách cùng lúc (non – synchronized) và vì thế giá cả thường ổn định trong ngắn hạn.

Theo Nguyễn Trọng Hoài, Nguyễn Hoài Bảo (2009), Lạm phát ở Việt Nam: Lý thuyết và kiểm chứng thực nghiệm mô hình P-Star, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội.

Kinh tế học : Lạm phát không là hiện tượng tiền tệ - Quan điểm của trường phái Keynes mới

Cung cấp công cộng
Cung cấp tư nhân
Không trả tiền trực tiếp khi sử dụng (hoặc không thu tiền trực tiếp khi cung cấp) Trả tiền trực tiếp khi sử dụng (hoặc thu tiền trực tiếp khi cung cấp)
Trả tiền (thu tiền) không gắn liền với số lượng và chất lượng hàng hóa, dịch vụ được sử dụng (cung cấp) Trả tiền (thu tiền) gắn liền với số lượng và chất lượng hàng hóa, dịch vụ được sử dụng (cung cấp)
Trả tiền (thu tiền) với giá rẻ, có bù giá, trợ giá Trả tiền (thu tiền) theo cơ chế thị trường
--> biểu hiện phi thị trường --> biểu hiện thị trường


Nguồn: Ths. Trần Thu Vân (2011), Bài giảng Kinh tế công cộng, Trường ĐH Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.

Kinh tế học : Phân biệt cung cấp công cộng và cung cấp tư nhân như thế nào?

Có những món quà mà bạn không cần phải tốn tiền mua.
Có những món quà mà bạn luôn muốn được nhận.
Có những món quà mà người khác chờ đợi bạn tặng.


1. Món quà từ sự lắng nghe

Khi bạn thực sự lắng nghe, bạn chú ý, không ngắt ngang, không mơ màng, chỉ lắng nghe để cảm nhận về thấu hiểu. Đó là món quà vô giá thứ nhất bạn có thể dành cho người khác đặc biệt là những người thân yêu của mình.

2. Món quà từ sự trìu mến

Hãy thể hiện sự trìu mến với những người thân yêu bằng những lời nói ân cần và cử chỉ trìu mến, bạn sẽ thấy những điều kỳ diệu.

3. Món quà từ sự vui tươi

Hãy cắt những biến họa, chia sẻ những mẩu chuyện cười và những tin vui nhộn cho các cộng sự và người thân. Họ sẽ hiểu và cảm nhận rằng bạn luôn muốn chia sẻ niềm vui và do đó họ sẽ dành cho bạn những điều to lớn hơn.

4. Món quà từ những mẩu giấy viết tay

Hãy viết ra từ những lời chân thật, dù rất ngắn, nó có sức mạnh phi thường đấy, dù nó là dòng chữ “Cảm ơn bạn đã giúp đỡ tôi” hay “Xin lỗi vì mình đã quá nóng với bạn”. Hay thậm chí một bài thơ hay một lời khuyên đẹp. Chính những điều nho nhỏ đó, có thể đi suốt cuộc đời ta.

5. Món quà từ sự khen ngợi

Sự ngợi khen thật lòng có sức mạnh không ngờ, đó có thể là “Chiếc áo đỏ thật tuyệt với bạn!” hay “Một bữa ăn rất ngon!” có thể đem lại niềm vui cho người khác suốt cả ngày.

6. Món quà từ sự giúp đỡ

Mỗi ngày hãy chủ động làm một vài điều tử tế, bạn sẽ thấy cuộc sống thật vui vẻ và nhẹ nhàng.

7. Món quà của sự yên tĩnh

Hãy luôn nhạy cảm về điều này và để sự yên tĩnh cần thiết cho người khác cũng như có những lúc bạn cần sự yên tĩnh ấy.

8. Món quà từ sự thân thiện

Hãy vui vẻ nói “Xin chào”, “Khỏe không?”, “Mọi việc ổn chứ?”… những điều thật dễ dàng để nói nhưng sẽ đọng lại hình ảnh tốt của bạn nơi người thân.

Hãy tặng những món quà này cho những người xung quanh bạn, hàng ngày...

Nguồn từ BaiHocThanhCong.com

Bài học thành công : 8 món quà không mất tiền mua


International Women's Day is celebrated each year on March eighth. Groups around the world use this day to honor the progress of women. They also use the day to call attention to the social, political and economic problems facing women and girls. Among the issues are forced marriage, sexual abuse, poverty and a lack of education.

The United Nations says one in five women worldwide will be the victim of a sexual assault in her lifetime. It says rape and domestic violence are major causes of disability and death among women age fifteen to forty four. More than one hundred thirty million females in Africa and other areas of the world have had their sexual organs cut for cultural reasons.

Secretary General Ban Ki-moon says the world's goals for peace, security, and sustainable development are at risk until women and girls are freed from poverty and injustice. More than one billion people in the world live in extreme poverty. And the United Nations says the majority are female.
National Woman's Day was first celebrated in the United States on February twenty eighth, nineteen hundred and nine. The next year a women's rights leader from Germany suggested the idea of an international celebration. Clara Zetkin said women around the world should set aside one day every year to protest oppression and inequality. She suggested the idea at an International Conference of Working Women in Copenhagen.

More than one million people attended events in Austria, Denmark, Germany and Switzerland during the first International Women's Day. It took place in nineteen eleven.

In nineteen fourteen the date for the observance was changed to March eighth in honor of an historic protest for women's rights. Fifteen thousand women marched in New York City on March eighth nineteen hundred and eight. They marched to demand better pay, shorter work hours and the right to vote

International Women's Day is a public holiday in several countries. They include China, Russia, Bulgaria and Vietnam.

Năm nay là kỷ niệm 100 năm ngày khởi xướng ngày Phụ nữ Quốc tế năm, 1911-2011. Bạn sẽ xem video dưới đây về Ngày Quốc tế Phụ nữ 2010.

Bạn có thể đoán được câu trả lời cho những câu hỏi dưới đây không?

Question 1

What percentage of food in developing nations is produced by women?

a) 25-30%
b) 40-50%
c) 60-80%

Question 2

True or false? Women control $4 trillion dollars in worldwide assets

a) true
b) false

Question 3

In what percentage of households are women the breadwinners (main wage earners)?

a) 1 out of 2 households
b) 1 out of 3 households
c) 1 out of 4 households

Task 1

Bây giờ bạn hãy xem đoạn Video về Ngày Phụ nữ Quốc tế 2010, và kiểm tra xem bạn có trả lời đúng câu hỏi không nhé!




Theo Mec Việt Nam


Dữ liệu thứ cấp

Dữ liệu thứ cấp là dữ liệu do người khác thu thập, sử dụng cho các mục dích có thể là khác với mục đích nghiên cứu của chúng ta. Dữ liệu thứ cấp có thể là dữ liệu chưa xử lý (còn gọi là dữ liệu thô) hoặc dữ liệu đã xử lý. Như vậy, dữ liệu thứ cấp không phải do người nghiên cứu trực tiếp thu thập.

Có nhiều nhà nghiên cứu, sinh viên đánh giá thấp nguồn dữ liệu thứ cấp có sẵn. Vì vậy chúng ta bắt đầu xem xét sự hợp lý của nguồn dữ liệu thứ cấp đối với vấn đề nghiên cứu của chúng ta trước khi tiến hành thu thập dữ liệu của chính mình. Các cuộc điều tra về dân số, nhà ở, điều tra doanh nghiệp, điều tra mức sống dân cư, điều tra kinh tế xã hội gia đình (đa mục tiêu)... do chính phủ yêu cầu là những nguồn dữ liệu rất quan trọng cho các nghiên cứu kinh tế xã hội.

Ngoài ra một số nguồn dữ liệu dưới đây có thể là quan trọng cho các nghiên cứu của chúng ta bao gồm:
§  Các báo cáo của chính phủ, bộ ngành, số liệu của các cơ quan thống kê về tình hình kinh tế xã hội, ngân sách quốc gia, xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, dữ liệu của các công ty về báo cáo kết quả tình hình hoạt động kinh doanh, nghiên cứu thị trường...
§  Các báo cáo nghiên cứu của cơ quan, viện, trường đại học
§  Các bài viết đăng trên báo hoặc các tạp chí khoa học chuyên ngành và tạp chí mang tính hàn lâm có liên quan
§  Tài liệu giáo trình hoặc các xuất bản khoa học liên quan đến vấn đề nghiên cứu
§  Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là các bài báo cáo hay luận văn của các sinh viên khác (khóa trước) trong trường hoặc ở các trường khác.

Ưu điểm của việc sử dụng dữ liệu thứ cấp là tiết kiệm tiền bạc, thời gian.
Nhược điểm trong sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp là:
§  Số liệu thứ cấp này đã được thu thập cho các nghiên cứu với các mục đích khác và có thể hoàn toàn không hợp với vấn đề của chúng ta; khó phân loại dữ liệu; các biến số, đơn vị đo lường có thể khác nhau...
§  Dữ liệu thứ cấp thường đã qua xử lý nên khó đánh giá được mức độ chính xác, mức độ tin cậy của nguồn dữ liệu.

Vì vậy trách nhiệm của người nghiên cứu là phải đảm bảo tính chính xác của dữ liệu, phải kiểm tra xem các kết quả nghiên cứu của người khác là dựa vào dữ liệu thứ cấp hay sơ cấp. Vì vậy điều quan trọng là phải kiểm tra dữ liệu gốc.

Dữ liệu sơ cấp

Khi dữ liệu thứ cấp không có sẵn hoặc không thể giúp trả lời các câu hỏi nghiên cứu của chúng ta, chúng ta phải tự mình thu thập dữ liệu cho phù hợp với vấn đề nghiên cứu đặt ra. Các dữ liệu tự thu thập này được gọi là dữ liệu sơ cấp. Hay nói cách khác, dữ liệu sơ cấp là dữ liệu do chính người nghiên cứu thu thập.


Theo TS. Trần Tiến Khai, ThS. Trương Đăng Thụy, ThS. Lương Vinh Quốc Duy, ThS. Nguyễn Thị Song An, ThS. Nguyễn Hoàng Lê (2009), Phương pháp nghiên cứu kinh tế, Khoa Kinh tế Phát triển, Trường ĐH Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.

Dữ liệu thứ cấp và dữ liệu sơ cấp trong nghiên cứu kinh tế

Khối lượng vàng do các quỹ ETP nắm giữ đang giảm mạnh nhất trong hơn hai năm, do dự báo triển vọng kinh tế toàn cầu phục hồi.
Hiện, tài sản vàng được các quỹ ETP hỗ trợ đã sụt giảm 31 tấn, xuống 2.043,09 tấn, thấp nhất kể từ tháng 10/2008. Tỉ lệ nắm giữ vàng của các quỹ ETP đã sụt giảm 3,4% từ mức kỷ lục 2.114,6 tấn hôm 20/12.

"Tính từ giữa năm 2009 tới nay, thì đây là lần đầu tiên, vàng mất vị trí dẫn đầu trong các loại hàng hóa, lùi sau các hàng hóa theo chu kỳ như dầu mỏ", chuyên gia Jeffrey Currie thuộc Goldman Sachs cho hay.
Còn theo chuyên gia Kevin Baldauf thuộc hãng tư vấn đầu tư Wafra, vàng không có giá trị cơ bản vì kim loại quý này không tạo ra bất kỳ nguồn tiền mặt nào.


Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF dự báo, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm nay có thể đạt mức 4,4%, tăng so với dự báo 4,2% đưa ra trước đây. Hơn một nửa trong số 1.000 người tham gia cuộc khảo sát giá vàng hàng quý của hãng tin Bloomberg nhận định, thị trường vàng đang rơi vào tình trạng bong bóng.

Theo một báo cáo của Standard Chartered, "các số liệu kinh tế mạnh mẽ đã cải thiện niềm tin vào kinh tế toàn cầu và nhu cầu nắm giữ vàng và bạc làm kênh đầu tư trú đối với những rủi ro trong lĩnh vực tín dụng, và tiền tệ sụt giảm. Chúng tôi cho rằng, nhu cầu đối với cả hai tài sản vàng và bạc sẽ đều sụt giảm".
Trong khi đó, theo một dự cáo của hãng tin Reuters dựa trên nhận định của các nhà phân tích và nhập khẩu vàng của Ấn Độ, giá vàng có thể sẽ phục hồi khá mạnh trong quý này và đạt kỷ lục mới vào cuối quý 3 tới.

Theo đó, giá vàng sẽ phá vỡ đỉnh 1.415 USD/ounce thiết lập trong năm ngoái và có thể đạt khoảng 1.430 USD/ounce vào cuối quý 3.

So với mức thấp nhất trong tháng này, giá vàng theo như dự báo sẽ tăng khoảng 10%. “Giá vàng đã giảm nhẹ so với với đỉnh cao thiết lập gần đây. Các nhà đầu tư đã liên tục hiện thực hóa lợi nhuận và điều này sẽ giúp vàng có động lực để lập những đỉnh cao mới”, một chuyên gia ngân hàng chuyên nhập khẩu vàng của Ấn Độ nói.

“Trong ngắn hạn, có thể có những đợt điều chỉnh giảm ngắn, nhưng chúng tôi vẫn tin tưởng vào xu hướng tăng giá của vàng. Đợt tăng đầu tiên sẽ là vào cuối quý 1”, Ritesh Gandhi, một chuyên gia nghiên cứu hàng hóa của AnandRathi Commodities nhận định. Việc Mỹ tiếp tục in tiền sẽ ảnh hưởng tới giá trị đồng USD và khiến lạm phát tăng mạnh hay vàng cũng sẽ tăng.
Theo TinKinhte.com


Tình hình siêu lạm phát ở Zimbabwe hiện nay còn vượt xa Đức.


Vào những năm 1980 Zimbabwe là nước giàu có của châu Phi. Một đô Zimbabwe lúc bấy giờ có giá trị tương đương với 1 đôla Mỹ. Nhưng đến tháng 7/2008 thì tỷ giá chính thức mà ngân hàng công bố là 20 tỷ đôla Zimbabwe / đôla Mỹ; còn tỷ giá ở thị trường chợ đen là 90 tỷ đôla Zimbabwe/đôla Mỹ!
Ngân hàng liên tục phát hành giấy bạc mệnh giá cao, tháng 1/2008 phát hành giấy bạc mệnh giá 20 triệu đôla, đến 21/7/2008 phát hành giấy bạc mệnh giá 100 tỷ đôla.

Giá một quả trứng là 7.5 tỷ đôla Zimbabwe; 1kg bắp giá 15 tỷ đôla Zimbabwe. Thu nhập của một nhân viên bán hàng là 15 tỷ đôla Zimbabwe /tháng chỉ đủ mua 20 quả trứng!
Các doanh nghiệp chỉ hoạt động cầm chừng dưới 30% công suất, tỷ lệ thất nghiệp đến 80%!

Theo TS. Nguyễn Như Ý, ThS. Trần Thị Bích Dung. 2009. Kinh tế vĩ mô. Nhà xuất bản Thống Kê.

Kinh tế học : Siêu lạm phát ở Zimbabwe

Author Name

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.