tháng 7 2011

Khi đề cập mối quan hệ giữa tiền tệ và lạm phát, Friedman cho rằng “lạm phát luôn luôn và bất cứ ở đâu đều là hiện tượng tiền tệ” (Inflation is always and everywhere a monetary phenomenon). Khi đó lạm phát được định nghĩa là một sự tăng giá nhanh và liên tục. Hầu hết các nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ, hoặc trường phái Keynes cũng đồng ý với nhận định của Friedman.

Quan điểm các nhà thuộc trường phái tiền tệ:
Trước hết, bằng việc sử dụng phân tích của các nhà kinh tế tiền tệ, chúng ta hãy xem kết quả gia tăng cung tiền tệ liên tục được minh họa ở bên dưới.
Phản ứng giá cả đối với sự gia tăng tiền tệ liên tục
 Khởi đầu nền kinh tế cân bằng ở điểm 1 (giao giữa AD1 và AS1). Nếu cung tiền gia tăng qua mỗi năm, làm cho tổng cầu dịch chuyển sang phải đến AD2. Khi đó nền kinh tế tiến đến cân bằng ở điểm 1’ với đặc điểm: sản lượng gia tăng, thất nghiệp giảm.Thế nhưng, với sự mở rộng sản xuất đến lượt nó sẽ làm gia tăng chi phí. Và đường AD2 sẽ lập tức di chuyển qua trái, cắt đường AS2 tạo ra điểm cân bằng mới ở điểm 2, với mức giá gia tăng từ P1>P2. Cứ như vậy, nếu cung tiền cứ gia tăng thì mức giá gia tăng và lạm phát xảy ra. Nghĩa là M tăng lên à P tăng lên. Trong phân tích cùa các nhà kinh tế tiền tệ, cung tiền được xem như là nguồn duy nhất làm dịch chuyển đường cầu AD, không có yếu tố khác làm di chuyển nền kinh tế từ điểm 1 đến 2 và 3 và hơn nữa. 

Theo PGS-TS. Sử Đình Thành, TS. Vũ Thị Minh Hằng, Gs-TS. Dương Thị Bình Minh, Ths. Phạm Văn Hiếu, Ths. Nguyễn Anh Tuấn, TS. Bùi Thị Mai Hoài, TS. Diệp Gia Luật. 2008. Nhập môn tài chính tiền tệ. Nhà xuất bản Lao Động Xã Hội. Hà Nội.

Kinh tế học : Nguyên nhân gây ra lạm phát theo quan điểm các nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ 

Bản thân tiền giấy không có giá trị nội tại mà chỉ mang giá trị danh nghĩa. Do đó, khi có hiện tượng thừa tiền giấy trong lưu thông thì người ta không có xu hướng giữ lại trong tay mình những đồng tiền bị mất giá và lượng tiền thừa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Lạm phát (inflation) là gì
Nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ lạm phát (inflation), nhưng nói chung chưa có một sự thống nhất hoàn toàn. Quan điểm cổ điển cho rằng lạm phát xảy ra khi số tiền lưu hành vượt quá dự trữ vàng làm đảm bảo của ngân hàng phát hành. Cụ thể người ta dự vào tỷ lệ đảm bảo của tiền tệ để xem xét có lạm phát hay không. Chẳng hạn nếu pháp luật ấn định rằng tỷ lệ đảm bảo tối thiểu của tiền tệ 40%, khi tỷ lệ đó xuống dưới mức pháp định tức là ngân hàng đã phát hành tiền quá mức. Quan điểm này coi trọng cơ sở đảm bảo của tiền. Trong thực tế, có những trường hợp tỷ lệ đảm bảo pháp định vẫn được tôn trọng nhưng giá cả của hàng hóa đều lên cao. Nước Đức năm 1934 đã tránh được nạn lạm phát mặc dù tỷ lệ đảm bảo của đồng Mark xuống dưới 2%.

Quan điểm khác cho rằng lạm phát là sự mất cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế. Có thể tóm tắt trong phương trình Fisher: M.V=P.Y. Nếu tổng khối lượng tiền lưu hành (M) tăng thêm trong khi tổng lượng hàng hóa – dịch vụ được trao đổi (Y) giữ vững, tất nhiên mức giá trung bình (P) phải tăng. Và nếu thêm vào đó tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tăng thì P lại tăng rất nhanh. Để khắc phục tình trạng này cần dùng biện pháp thích hợp để thiết lập lại cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế.
Quan điểm tĩnh về lạm phát nêu trên tuy giúp ta hiểu rõ về lạm phát, nhưng không cho biết nguyên nhân của lạm phát và khiến cho ta lầm tưởng lạm phát cao là kết quả của việc tăng trưởng mức cung tiền tệ cao. Thật ra trong nhiều trường hợp không hẳn là như vậy, nhà nước có thể tăng cung ứng tiền tệ mà không làm cho giá cả tăng, không gây ra lạm phát, nếu như khối lượng tăng đó phù hợp với khối tiền cần thiết cho lưu thông, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.

Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng giá của các loại hàng hóa (tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất và hàng hóa sức lao động). Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng. Theo quan điểm này thì giá cả tăng lên cho dù bất kỳ nguyên nhân nào đều là lạm phát. Lạm phát và giá cả tăng đều cùng một ý nghĩa. Thật ra giá cả đồng loạt tăng lên chỉ là một trong những biểu hiện cơ bản của lạm phát mà thôi.

Vậy lạm phát là gì? Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các lại hàng hóa tăng lên đồng loạt.

Theo PGS-TS. Sử Đình Thành, TS. Vũ Thị Minh Hằng, Gs-TS. Dương Thị Bình Minh, Ths. Phạm Văn Hiếu, Ths. Nguyễn Anh Tuấn, TS. Bùi Thị Mai Hoài, TS. Diệp Gia Luật. 2008. Nhập môn tài chính tiền tệ. Nhà xuất bản Lao Động Xã Hội. Hà Nội.

Đo mức độ lạm phát như thế nào?
Kinh tế học : Lạm phát (inflation) là gì? Các quan điểm về lạm phát?


BusinessDictionary.com: A sustained, rapid increase in prices, as measured by some broad index (such as Consumer Price Index) over months or years, and mirrored in the correspondingly decreasing purchasing power of the currency. It has its worst effect on the fixed-wage earners, and is a disincentive to save.
There is no one single, universally accepted cause of inflation, and the modern economic theory describes three types of inflation: (1) Cost-push inflation is due to wage increases that cause businesses to raise prices to cover higher labor costs, which leads to demand for still higher wages (the wage-price spiral), (2) Demand-pull inflation results from increasing consumer demand financed by easier availability of credit; (3) Monetary inflation caused by the expansion in money supply (due to printing of more money by a government to cover its deficits).

Khi Nhà Trắng vẫn tiếp tục đàm phán với các nhà lãnh đạo quốc hội về một thỏa thuận ngân sách vào cuối tuần này, người đứng đầu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund) Christine Lagarde nói rằng cô "không thể tưởng tượng lần thứ hai" rằng Hoa Kỳ sẽ mặc định về nghĩa vụ nợ của mình, đó sẽ là "một cú sốc thực sự" cho nền kinh tế toàn cầu nếu không thoả thuận được.

Christine Lagarde 'Can't Imagine' United States Would Default on Debt

"Thách thức đó không chỉ là của Hoa Kỳ, mà còn là của phần còn lại của thế giới."
IMF đã được tạo ra sau khi chiến tranh thế giới thứ II của Mỹ và các đồng minh châu Âu của mình để giám sát các nền kinh tế toàn cầu và là một người cho vay cuối cùng, để các nước gặp khó khăn về tài chính, trong khi cũng thúc đẩy việc làm toàn cầu và tăng trưởng.

Lagarde, người trước đây từng là Bộ trưởng Tài chính Pháp, cho biết có thể có "những hậu quả thực sự khó chịu", như tăng lãi suất, thị trường chứng khoán ảm đạm, thất nghiệp gia tăng, và giảm đầu tư nếu không đạt được một thỏa thuận tháng tám này.

Theo ABCNews
Christine Lagarde: không thể tưởng tượng Hoa Kỳ sẽ vỡ nợ

Author Name

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.