tháng 4 2011


Thất nghiệp - căn bệnh kinh niên của nền kinh tế thị trường.
Thất nghiệp - tâm điểm kinh tế học vĩ mô?
Thất nghiệp - phản ánh đúng bức tranh kinh tế?
Thất nghiệp - sức khỏe nền kinh tế Việt Nam?...

Người cung cấp: Ngô Minh Thành
Định dạng: Power Point 2007 - Tải về

Tiểu luận : Thất nghiệp - căn bệnh kinh niên của kinh tế thị trường (Ngô Minh Thành)


Nhà kinh tế học người Pháp J. B. Say đã thừa nhận vào đầu thế kỷ 19 rằng cung tạo ra cầu của chính nó – một tuyên bố chính thức được biết đến với tên gọi định luật Say.


Say tự mình đã diễn tả ý tưởng theo cách như thế này :”[A] product is no sooner created, than it, from that instant, affords a market for other products to the full extent of its own value ” [Jean -  Baptiste Say, A Treatise on Political Economy, trans. C. R. Prinsep,ed. Clement C. Biddle (Philadelphia: Lippincott, Grambo&Co.,1855 {1803}): bk. I, chap. XV ,para. 8]. Mặc dù ý tưởng này đã được phát triển bởi các nhà kinh tế học cổ điển khác (bao gồm James Mill, David Ricardo và John Stuart Mill), thành ngữ thực tế  “cung tạo ra cầu của chính nó” (supply creates its own demand), bây giờ được biết đến như  Định luật Say, đã được đút kết sau đó – có lẽ cho đến năm 1936 bởi John Maynard Keynes, người đã tấn công ý tưởng này. Xem Keynes , The General Theory of Employment, Interest, and Money (New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1964 [1936]), 18, 25.

Vì sản xuất tạo ra thu nhập bằng với giá trị đầy đủ của sản phẩm được bán ra, tổng thu nhập sẽ luôn luôn đủ để mua tất cả sản lượng được sản xuất. Không may là kỳ vọng tiêu cực đôi lúc xâm nhập vào vòng chu chuyển hạnh phúc của sản xuất và tiêu dùng này. Nếu các cá nhân dự kiến thời kỳ khó khăn sắp xảy ra ngay ở phía trước , họ có thể kìm lại các khoản chi tiêu của họ, bao gồm cả tiêu dùng và đầu tư, do vậy tạo ra một hố cách giữa GDP tiềm năng (cung khả thi – feasible supply) và GDP thực tế (cầu hữu hiệu – effective demand).

Kết quả là một vòng xoắn trôn ốc hướng xuống hiện rõ: vì lo lắng, người tiêu dùng quyết định tiết kiệm nhiều hơn và tiêu dùng ít đi, các hãng sa thải công nhân và giảm đầu tư mới vì họ không thể sản xuất ra những hàng hóa và dịch vụ mà họ không thể bán được; gia tăng thất nghiệp và giảm thu nhập, từ đó làm cắt giảm cầu nhiều hơn và do vậy tiếp tục làm nhấn sâu hơn vòng xoắn hướng xuống. Dù năng lực sản xuất vẫn tồn tại, sản lượng giảm vì các nguồn lực sản xuất – cả con người và máy móc thiết bị - bị rơi vào tình trạng hoạt động cầm chừng để đối phó với sự suy sụp của phía cầu. Keynes thích gọi hiện tượng này là “nghịch lý của sự nghèo đói trong sự dư thừa” (paradox of poverty in the midst of plenty).

Theo David A. Moss (2007), Hướng dẫn tóm tắt về Kinh tế học vĩ mô, được dịch bởi Châu Văn Thành (2010), Bài giảng Kinh tế vĩ mô II, trường ĐH Kinh tế TP HCM.

Kinh tế học : Kỳ vọng và Định luật Say “cung tạo ra cầu của chính nó” (supply creates its own demand)


Quan trọng không phải là ý chí để chiến thắng - ai mà có điều đó. Điều quan trọng chính là ý chí để chuẩn bị cho chiến thắng. Paul 'Bear' Bryant

Cách sắp xếp thời gian của bạn sẽ cho thấy bạn thuộc loại người nào trong 4 loại dưới đây:

Người lừng khừng hay khất lần
Loại người này cho tất cả đều quan trọng và khẩn cấp cả. họ không thể kiểm soát được việc gì nên làm trước, việc gì nên làm sau. Họ hay khất lần cho đến lúc nước đến chân mới nhảy, và khi đó mọi việc rối tung và chẳng mấy chốc họ như muốn điên lên. Stress là điều không thể tránh khỏi, vì làm việc gì cũng có áp lực đè nặng. Cuối cùng chẳng việc gì ra việc gì cả.
Ngày xưa trong trường, tôi là một người hay khất lần như vậy, thậm chí còn tự hào về việc cả năm không thèm học bài, cho đến lúc thi thì thức trắng nhiều đêm. Tôi cũng qua được những kỳ thi, nhưng cái giá phải trả là kiến thức mà tôi nuốt vào vội vã theo cách đó không ở lại lâu trong tôi.
Cuối cùng, tính hay khất lần sẽ biến bạn thành một người luôn ở trong trạng thái căng thẳng mà vẫn thiếu trách nhiệm, hời hợt trong công việc.

Người ba phải
Dân ba phải xem chuyện gì cũng cần làm ngay, nhưng không có việc gì quan trọng! Dân ba phải luôn muốn làm vừa lòng mọi người xung quanh nên luôn muốn đáp ứng tất cả mọi yêu cầu của mọi người. Tính cách này có vẻ giả dối vì làm mọi việc có vẻ khẩn cấp để người ta lầm tưởng rằng việc đó quan trọng, nhưng thực tế thì không như vậy, anh ta có xem việc đó là quan trọng đâu, dân ba phải mà lại, ai nói gì mà chẳng gật. Anh ta có thích hội họa chăng nữa nhưng bố anh ta là một vận động viên bơi lội thì đương nhiên là anh ta cũng tỏ ra là thích bơi lội để làm vừa lòng bố.
Nếu bạn nhiễm tính ba phải nhiều như thế, bạn sẽ sinh ra tính vô kỷ luật, dễ trở thành người xu nịnh đấy.

Kẻ lười biếng
Nếu đã lười nhác thì còn có việc gì là quan trọng và khẩn cấp đâu. Anh ta sẽ luôn phí thời giờ cho nhưng việc quá đáng như xem tivi triền miên, ngủ nướng tối ngày, cà kê dê ngỗng trên điện thoại, chơi game suốt, tán gẫu trên mạng thì khỏi nói. Bạn chứ có học đòi tính lười biếng như thế, nếu không bạn sẽ sinh ra thiếu trách nhiệm, hư hỏng.

Người biết dành quyền ưu tiên
Người biết dành quyền ưu tiên biết rõ việc gì là quan trọng và không gấp gáp, chẳng hạn như việc làm quen bạn mới, luyện tập điều độ, lên kế hoạch cho công việc, nghỉ ngơi hợp lý... thật tuyệt vời nếu bạn được như vậy. Việc gì đối với người biết dành quyền ưu tiên đều được coi trọng. Thế những việc này không cần làm gấp sao? Không, nó chỉ cần làm đúng lúc, đúng chỗ. Dĩ nhiên là loại người này cũng không phải đã là hoàn hảo, nhưng họ biết xem xét mọi việc và dành quyền ưu tiên cho những việc cần làm trước. Họ cũng biết từ chối đúng lúc, đúng việc. Bởi vì họ có một thói quen tuy đơn giản nhưng rất hữu dụng, đó là làm việc có kế hoạch.
Nếu bạn cũng biết dành quyền ưu tiên cho những việc cần thiết thì bạn sẽ tự chủ được cuộc đời mình, cân bằng trong cuộc sống và có phong thái ung dung.

Xem khi xem xét rồi bạn thấy thế nào? Dĩ nhiên là để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, bạn nên trở thành người biết dành quyền ưu tiên và nên bớt tính khất lần, ba phải và lười biếng. Trong mỗi người đều có đủ tính tốt và tính xấu, vậy thì bạn hãy: 

§ Bớt khất lần:  đừng có việc gì cũng ôm vào và việc gì cũng xem là quan trọng và gấp gáp hết. Bớt tính này, bạn sẽ bớt căng thẳng đấy. 
§ Biết nói không với những việc không cần thiết, việc này không dễ nhưng bạn có thể làm được, đừng tự biến mình thành người ba phải, xấu lắm. 
§ Từ bỏ tính lười biếng: đừng phí thì giờ vào những việc vô bổ, để dành thời giờ vào những việc quan trọng. Bạn có quyền nghỉ ngơi nhưng đừng có quá đáng, bạn nên nghỉ ngơi có kế hoạnh như người biết dành quyền ưu tiên ở trên. Vậy để trở thành người biết dành quyền ưu tiên thì phải làm thế nào? Phải biết lên kế hoạch!

Theo: Sean Covey, 2009, 7 thói quen của bạn trẻ thành đạt, nhà xuất bản Trẻ.

Bài học thành công : Cách sắp xếp thời gian của bạn sẽ cho thấy bạn thuộc loại người nào


Một mô hình cân bằng thị trường là mô hình trong đó giá điều chỉnh để cân bằng cung và cầu. Các mô hình cân bằng thị trường hữu ích trong những tình huống mà mức giá có tính linh hoạt. Tuy nhiên, trong nhiều tình huống, mức giá linh hoạt không chắc là một giả định sát thực tế. Ví dụ, hợp đồng lao động thường ấn định tiền lương cố định trong ba năm.
  Hoặc những doanh nghiệp như các nhà xuất bản tạp chí thường chỉ thay đổi mức giá sau ba đến bốn năm. 

Hầu hết các nhà kinh tế vĩ mô tin rằng tính linh hoạt của giá là một giả định hợp lý để nghiên cứu những vấn đề dài hạn. Trong dài hạn, giá phản ánh trước sự thay đổi của cầu hay cung, cho dù trong ngắn hạn, giá có thể chậm điều chỉnh.

Theo Châu Văn Thành (2011), Bài giảng kinh tế vĩ mô II, trường ĐH Kinh tế TP HCM.

 Kinh tế học : Một mô hình cân bằng thị trường là gì? Khi nào giả định về sự cân bằng thị trường là phù hợp?


Cán cân thanh toán (Balance of Payments BOP) là tài khoản cung cấp thông tin về các giao dịch xuyên biên giới của một quốc gia.


Một báo cáo BOP thông thường bao gồm ít nhất các khoản mục theo dòng như sau (hay một vài biến thể của chúng):
1.     Tài khoản vãng lai (Current account)
§  Cán cân thương mại hàng hóa và dịch vụ (Balance on trade in goods and services)
§  Thu nhập ròng (Net income)
§  Chuyển nhượng đơn phương ròng (Net unilateral transfers)
2.     Tài khoản vốn và tài chính (Capital and financial account)
§  Tài khoản vốn ròng (Net capital account)
§  Tài khoản tài chính (Net financial account)
+       Đầu tư trực tiếp nước ngoài ròng (Net foreign direct investment)
+       Các dòng đầu tư gián tiếp ròng (Net portfolio flows)
+       Các dòng vốn khác, ròng (Other capital flows, net)
+       Thay đổi dự trữ chính thức (Change in official reserves)
§  Sai và sót (Errors and Omissons)

Theo David A. Moss (2007), Hướng dẫn tóm tắt về Kinh tế học vĩ mô, được dịch bởi Châu Văn Thành (2010), Bài giảng Kinh tế vĩ mô II, trường ĐH Kinh tế TP HCM.

 Kinh tế học : BOP trong kinh tế là gì ?



Để đánh giá đúng tầm quan trọng của kinh tế vĩ mô, bạn chỉ cần đọc báo và nghe đài. Các phương tiện truyền thông đại chúng hàng ngày thông tin về chiều hướng phát triển của nền kinh tế. Những tiêu đề in đậm trên trang nhất như THU NHẬP CÁ NHÂN TĂNG BỐN PHẦN TRĂM, QUỸ DỰ TRỮ LIÊN BANG CHUYỂN SANG CHỐNG LẠM PHÁT, hoặc CỔ PHIẾU GIẢM DO MỌI NGƯỜI LO SỢ TÌNH TRẠNG SUY THOÁI... hầu như không ngày nào không xuất hiện trên báo chí.

Tất cả các biến số kinh tế vĩ mô đều đụng chạm đến cuộc sống của chúng ta. Khi dự báo nhu cầu sản phẩm của chính mình, hội đồng quản trị ở các doanh nghiệp phải đoán xem thu nhập của người tiêu dùng tăng nhanh đến mức nào. Người già sống bằng thu nhập cố định thường băn khoăn về tốc độ tăng giá. Những công nhân thất nghiệp đang tìm kiếm việc làm hi vọng nền kinh tế phục hồi và các doanh nghiệp tuyển thêm người. Tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi thực trạng của nền kinh tế.


 Điều dễ hiểu là biến cố kinh tế vĩ mô đóng vai trò trung tâm trong các cuộc tranh luận chính trị. Vào những năm 70, tổng thống Nixon, Ford, Carter, tất cả đều vật lộn một cách vô vọng với tình hình lạm phát ngày càng leo thang. Năm 1993, tổng thống Clinton chuyển đến văn phòng bầu dục với lời cam kết cắt giảm thâm hụt ngân sách và thúc đầy tăng trường kinh tế. Uy tính của vị tổng thống đương nhiệm tăng trong giai đoạn phục hồi kinh tế và giảm trong thời kỳ suy thoái. Cử tri hiểu rõ ý nghĩa của các biến cố kinh tế vĩ mô, còn các nhà chính trị ý thức rõ tầm quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô.

Ảnh hưởng của các biến cố kinh tế đối với chính trị biểu hiện rõ nét nhất trong những cuộc bầu cử tổng thống. Chính sách kinh tế là chủ đề hàng đầu trong cuộc tranh luận giữa các ứng cử viên và thực trạng của nền kinh tế có ảnh hưởng mạnh mẽ tới kết quả bầu cử. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1992, chiến lược gia chủ yếu của Clinton muốn hướng cuộc vận động tranh cử vào một vấn đề then chốt. Trong phòng làm viêc của mình, ông vung tay lên như muốn nói: “Nền kinh tế ư, thật ngu xuẩn!”.
Các sự kiện kinh tế cũng đóng vai trò chủ đạo trong mối quan hệ quốc tế. Vào những năm 50 và 60, hầu hết các nước công nghiệp đều duy trì tỷ giá hối đoái cố định giữa đồng tiền của họ với nhau và với đồng tiền của các nước khác. Hệ thống tỷ giá hối đoái này sụp đổ vào những năm 70 và thời đại mới của chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt, biến động mạnh bắt đầu. Trong những năm 80 và 90, nước Mỹ nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu và thanh toán cho số hàng nhập khẩu dôi ra này bằng cách vay rất nhiều trên thị trường tai tài chính thế giới. Những xu hướng kinh tế quốc tế như vậy thường là nguồn gốc gây căng thẳng, ngay cả giữa những đồng minh thân cận nhất.

Các nhà kinh tế vĩ mô là những nhà khoa học tìm cách lý giải hoạt động của nền kinh tế với tư cách một tổng thể. Họ thu thập số liệu về thu nhập, giá cả và nhiều biến số kinh tế khác từ các thời kỳ và quốc gia khác nhau. Sau đó họ tìm cách xây dựng những lý thuyết tổng quát, góp phần giải thích các số liệu này.

Cũng giống như nhà thiên văn nghiên cứu quá trình tiến hóa của các vì sao và nhà sinh vật nghiên cứu quá trình tiến hóa của các loài, nhà kinh tế vĩ mô không thể tiến hành cá thực nghiệm có kiểm soát - thực nghiệm với nền kinh tế là một việc làm quá tốn kém. Thay vào đó, họ dựa trên những thực nghiệm tự nhiên. Các nhà kinh tế vĩ mô quan sát thấy rằng các nền kinh tế có nhiều nét khác nhau và chúng dều thay dổi theo thời gian. Kết quả quan sát vừa tạo ra động lực để phát triển các lí thuyết kinh tế vĩ mô, vừa cung cấp số liệu để kiểm định chúng.

Chắc chắn kinh tế vĩ mô là một ngành khoa học non trẻ và chưa hoàn chỉnh. Khả năng dự báo của các kinh tế vĩ mô về đường hướng phát triển tương lai của các sự kiện kinh tế chưa vượt quá khả năng của các nhà khí tượng khi họ dự báo về thời tiết tháng tới. Song, như các bạn sẽ thấy, chúng ta biết khá nhiều về phương thức hoạt động của nền kinh tế.

Mục tiêu của chúng ta trong việc nghiên cứu kinh tế vĩ mô không phải chỉ dừng lại ở phạm vi lí giải các biến cố kinh tế, mà còn nhằm cải thiện chất lượng của chính sách kinh tế. Các công cụ tài chính và tiền tệ của chính phủ có thể tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế - bao gồm cả mặt tích cực và tiêu cực – và khoa kinh tế vĩ mô giúp cho các nhà hoạch định chính sách đánh giá những chính sách khác nhau. Nhà kinh tế vĩ mô phải nghiên cứu nền kinh tế như nó đang tồn tại và suy ngẫm xem chúng ta nên làm gì để cải thiện nó.

Theo N. Gregory Mankiw, Kinh tế vĩ mô, bản dịch tiếng Việt, nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội.

Kinh tế học : Tại sao phải nghiên cứu kinh tế vĩ mô ?

Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (nominal exchange rate) là giá tương đối của đồng tiền của hai nước.
Tỷ giá hối đoái thực (real exchange rate) hay còn được gọi là tỷ giá ngoại thương là giá tương đối của hàng hóa của hai nước. Tỷ giá này cho biết tỷ lệ mà tại đó chúng ta có thể trao đổi hàng hóa của một nước này với hàng hóa của một nước khác nước khác.

Kinh tế học : Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (nominal exchange rate) là gì?



Kinh tế vi mô, một bộ phận nghiên cứu nền kinh tế trong phạm vi nhỏ, nghiên cứu hành vi của những đơn vị cá biệt trong nền kinh tế. Kinh tế vi mô nghiên cứu phương thức ra quyết định của các hộ gia đình và doanh nghiệp, cũng như tác động qua lại giữa họ trên thị trường. Nguyên tắc cơ bản nhất của kinh tế vi mô là các hộ gia đình và doanh nghiệp ‘tối ưu hóa’ tức họ tìm cách hành động hợp lý đến mức cho phép để đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện phải đối phó với những giới hạn nhất định. Trong mô hình kinh tế vi mô, các hộ gia đình ra quyết định mua hàng sao cho tối đa hóa được mức độ thỏa mãn của mình – điều mà các nhà kinh tế gọi là lợi ích – và các doanh nghiệp đưa ra quyết định sản xuất nhằm tối đa hóa lợi nhuận.

Vì các biến cố kinh tế mà các nhà kinh tế vĩ mô nghiên cứu phát sinh từ tác động qua lại giữa nhiều hộ gia đình và doanh nghiệp, nên kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô gắn bó chặt chẽ với nhau. Khi nghiên cứu nền kinh tế với tư cách một tổng thể, chúng ta phải xem xét quyết định của các chủ thể cá biệt. Ví dụ, để hiểu được yếu tố nào quyết định tổng mức chi tiêu của người tiêu dùng, chúng ta phải suy nghĩ về cách thức một gia đình quyết định mức chi tiêu hiện tại và tiết kiệm bao nhiêu cho tương lai. Để hiểu được yếu tố nào quyết định tổng chi tiêu cho đầu tư, chúng ta phải nghĩ về cách thức một doanh nghiệp quyết định có nên xây dựng một nhà máy mới hay không. Do các biến số tổng hợp chỉ là tổng các biến số mô tả các quyết định cá biệt, cho nên kinh tế vĩ mô đương nhiên phải được xây dựng trên cơ sở kinh tế vi mô.

Mặc dù các quyết định kinh tế vi mô luôn luôn là cơ sở cho các mô hình kinh tế, nhưng trong nhiều mô hình, hành vi tối ưu hóa của các hộ gia đình và doanh nghiệp chỉ mang tính ngầm định, chứ không thể hiện một cách rõ ràng. Mô hình về thị trường bánh mì: quyết định của các hộ gia đình về việc nên mua bao nhiêu bánh mì là cơ sở cho mức cầu về bánh mì, còn quyết định của những người sản xuất bánh mì về việc nên sản xuất bao nhiêu bánh mì là cơ sở cho mức cung về bánh mì. Theo giả định, các hộ gia đình đưa ra quyết định để tối ưu hóa lợi ích, còn người sản xuất bánh mì đưa ra quyết định để tối đa hóa lợi nhuận. Nhưng mô hình không tập trung nghiên cứu những quyết định kinh tế vi mô này. Tương tự như vậy, trong nhiều công trình nghiên cứu của kinh tế vĩ mô, hành vi tối ưu hóa của các hộ gia đình và doanh nghiệp chỉ có tính chất ngầm định.

Theo N. Gregory Mankiw, Kinh tế vĩ mô, bản dịch tiếng Việt, nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội.

Kinh tế học : Vai trò của kinh tế vi mô trong kinh tế vĩ mô


Khái niệm đầu tư đôi khi gây ra sự lẫn lộn đối với những người mới tiếp xúc với môn kinh tế vĩ mô. Sự lẫn lộn nảy sinh vì cái có vẻ là đầu tư của cá nhân lại không phải là đầu tư của nền kinh tế với tư cách là một tổng thể.


Giả sử chúng ta quan sát thấy hai sự kiện sau đây: 
§  Ông Smith mua một căn nhà xây dựng 100 năm trước đây ở đại lộ Victoria 
§  Bà Jones xây dựng một ngôi nhà hiện đại mới toanh.

Tổng đầu tư ở đây là bao nhiêu? Một ngôi nhà, hai ngôi nhà hay không có ngôi nhà nào cả?

Khi quan sát 2 giao dịch này, các nhà kinh tế vĩ mô chỉ tính ngôi nhà của bà Jones vào đầu tư. Giao dịch của ông Smith không tạo ra ngôi nhà mới cho nền kinh tế, nó chỉ tái phân phối ngôi nhà hiện có. Việc mua nhà của ông Smith là đầu tư đối với ông Smith, nhưng lại là sự cắt giảm đầu tư của người  bán ngôi nhà. Ngược lại, bà Jones đã bổ sung thêm một ngôi nhà mới cho nền kinh tế, ngôi nhà mới của bà được gọi là đầu tư.

    Tương tự như vậy, chúng ta hãy xem xét 2 sự kiện sau:  
§ Merill mua của Lynch 5 triệu đôla cổ phiếu IBM trên thị trường chứng khoán Lynch Niu Oóc.
§ General Motor bán 10 triệu đôla cổ phiếu cho công chúng và sử dụng số tiền đó để xây dựng một nhà máy ôtô mới.
Ở đây, đầu tư là 10 triệu đôla. Trong giao dịch thứ nhất, Merill đầu tư vào cổ phiếu IBM, còn Lynch giảm đầu tư, không có sự đầu tư nào trong nền kinh tế cả. Ngược lại, General Motor sử dụng một phần sản lượng hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế để bổ sung vào khối lượng tư bản của mình; bởi vậy nhà máy mới của nó được coi là đầu tư.

Quy tắc chung la những  hành vi mà chỉ tái phân phối tài sản hiện có giữa các cá nhân không được coi là đầu tư với nền kinh tế. Khái niệm đầu tư trong kinh tế vĩ mô gắn với việc tạo ra tư bản mới.


Theo N. Gregory Mankiw, Kinh tế vĩ mô, bản dịch tiếng Việt, nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội. 

Kinh tế học : Đầu tư là gì ?

 
Đặc điểm của bất động sản thương mại:
+ Tập trung ở trung tâm đô thị lớn có cơ sở hạ tầng tốt.
+ Vị trí thuận lợi cho mua bán kinh doanh.
+ Sản phẩm là các bđs phục vụ cho thương mại, cao ốc văn phòng, dịch vụ khách sạn.
...
Người cung cấp: Hoàng Thị Thanh Thảo
Định dạng: PowerPoint 2003 - Tải về 

Tiểu luận : 7 phân khúc thị trường bất động sản (Hoàng Thị Thanh Thảo)

Các nhân tố vĩ mô có tác động đến thị trường bất động sản ở Việt Nam
oTình hình tăng trưởng GDP và mức thu nhập của người dân Việt Nam.
oCác luồng vốn đầu tư vào lĩnh vực Bất động sản.
oTình hình lạm phát ở Việt Nam 2010.
oTốc độ tăng dân số ở Việt Nam.
oTốc độ đô thị hóa ở Việt Nam.
Người cung cấp: Hoàng Thị Thanh Thảo
Định dạng: PowerPoint 2003 - Tải về

Tiểu luận : Các nhân tố vĩ mô có tác động đến thị trường bất động sản ở Việt Nam (Hoàng Thị Thanh Thảo)

Kinh tế học : Thế nào là nền kinh tế thị trường, chỉ huy, hỗn hợp

Một nhiệm vụ chủ chốt của kinh tế học là nghiên cứu và giải thích những cách thức khác nhau mà xã hội trả lời cho các câu hỏi cái gì, thế nàocho ai. Các xã hội khác nhau được tổ chức theo những hệ thống kinh tế khác nhau, và kinh tế học nghiên cứu những cơ chế khác nhau mà xã hội có thể vận dụng được phân bổ các nguồn khan hiếm của mình.


Ngày nay, chúng ta có thể phân biệt rõ hai phương thức cơ bản trong tổ chức nền kinh tế. Ở một thái cực, chính phủ đưa ra hầu hết các quyết định kinh tế theo cách người ở trên trong bộ máy hành chính ra các mệnh lệnh kinh tế cho người bên dưới chấp hành. Ở thái cực kia, toàn bộ các quyết định đều do thị trường xác định, ở đó, các cá nhân và các doanh nghiệp đồng ý tự nguyện buôn bán các đầu vào và các đầu ra thông qua các thanh toán chủ yếu bằng tiền. Chúng ta hãy phân tích một cách vắn tắt từng phương thức tổ chức kinh tế một.

Tại Mỹ và phần đông các quốc gia, đại bộ phận các vấn đề kinh tế đều được quyết định trên thị trường. Vì vậy, hệ thống kinh tế của họ được gọi là nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế trong đó các cá nhân và các hãng tư nhân đưa ra các quyết định chủ yếu về sản xuất và tiêu dùng. Hệ thống giá cả, thị trường, lợi nhuận và thua lỗ, khuyến khích và khen thưởng sẽ xác định vấn đề cái gì, thế nào, cho ai. Các hãng sản xuất hàng tiêu dùng để thu được lợi nhuận cao nhất (vấn đề cái gì) bằng các kỹ thuật sản xuất có chi phí thấp nhất (vấn đề thế nào). Việc tiêu dùng được xác định thông qua các quyết định cá nhân về việc nên chi tiêu tiền lương và thu nhập từ tài sản có được do lao động và sở hữu tài sản của họ như thế nào (vấn đề cho ai). Trong trường hợp cực đoan của nền kinh tế thị trường, tại đó chính phủ hầu như không có vai trò kinh tế nào, được gọi là nền kinh tế tự do kinh doanh.

Ngược lại, nền kinh tế chỉ huy là nền kinh tế trong đó chính phủ quyết định về sản xuất và phân phối. Trong nền kinh tế chỉ huy như đã từng tốn tại ở Liên Xô trong gần suốt thế kỉ này, chính phủ sở hữu hầu hết các tư liệu sản xuất ( đất đai và vốn), chính phủ còn sở hữu và chỉ đạo hoạt động của các doanh nghiệp trong hầu hết các ngành kinh tế, chính phủ là ông chủ của đại bộ phận công nhân và chỉ bảo họ cần làm việc ra sao, chính phủ trong nền kinh tế chỉ huy còn quyết định cần phân phối của cải vật chất và dịch vụ của xã hội như thế nào. Nói tóm lại, trong nền kinh tế chỉ huy chính phủ giải đáp các vấn đề kinh tế chủ yếu thông qua quyền sở hữu của chính phủ đối với các nguồn lực và quyền áp đặt quyết định của mình.

Không có một xã hội đương đại nào hoàn toàn nằm ở một trong hai thái cực đó. Thay vào đó, tất cả các xã hội đều là các nền kinh tế hỗn hợp, có cả các yếu tố của thị trường và chỉ huy. Chưa bao giờ có một nền kinh tế thị trường 100% (mặc dù nước Anh vào thế kỉ 19 đã gần tiến tới). Ngày nay, phần lớn các quyết định tại Mỹ được đưa ra trên thương trường. Nhưng chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của thị trường: chính phủ quy định luật lệ và các nguyên tắc để điều tiết đời sống kinh tế, cung cấp các dịch vụ giáo dục và cảnh sát, điều tiết ô nhiễm và kinh doanh. Và nước Nga cũng như các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trước đây tại Đông Âu, không hài lòng với hoạt động của nền kinh tế chỉ huy của họ trước kia, đang tìm kiếm cho mình một hình thái kinh tế hỗn hợp đặc thù.

Các nhà kinh tế đã làm thay đổi tiến trình của lịch sử
:

Cuộc bàn luận về các vấn đề kinh tế chỉ huy sẽ không trọn vẹn nếu không nhắc đến Karl Marx (1818-1883). Marx là một nhà phê phán kinh tế thị trường nhạy bén và có ảnh hưởng nhất từ trước đến nay. Trong các tác phẩm được viết vào những năm 1800. Marx đã nhận thấy được sự bành trướng của các xí nghiệp và đường sắt khắp châu Âu đã kéo theo những xáo trộn to lớn như thế nào. Ông lập luận rằng, nếu không có sự kiểm soát, sức sản xuất của thị trường và sự cạnh tranh nhất định sẽ diễn ra hỗn loạn và gây ra những cuộc suy thoát trầm trọng, và làm tăng thêm sự bần cùng của công nhân. Marx tuyên bố rằng chủ nghĩa tư bản đã tới ngày tận thế và những cuộc khởi nghĩa cách mạng và chủ nghĩa xã hội sẽ sớm xảy ra.

Trong các thập kỉ tiếp sau đó, lịch sử hính như đã khẳng định những tiên đoán của Marx. Những cuộc đại khủng hoảng và suy thoái kinh tế vào thời kì 1890 và 1930 đã khiến giới tri thức của thế kỉ 20 đặt câu hỏi về khả năng sống còn của chủ nghĩa tư bản dựa trên doanh nghiệp tư nhân. Những người xã hội chủ nghĩa đã bắt đầu áp dụng mô hình của họ tại Liên Xô vào năm 1917, và cho tới thời điểm cao trào, có tới 1/3 thế giới đã nằm dưới ảnh hưởng của học thuyết Mácxit. Ngày nay, tất nhiên, số lượng các quốc gia tự mang danh là Mácxit đã giảm đi nhanh chóng... Tuy nhiên, những điều đó cũng không làm mất đi vị trí là một nhà kinh tế học quan trọng của Marx.


Theo Paul A Samuelson, Wiliam D. Nordhalls (1948). Kinh tế học. Bản dịch tiếng Việt. Nhà xuất bản Tài chính, tái bản lần 1 (2007)


Thất nghiệp có thể được chia thành các dạng sau:

§  Thất nghiệp tạm thời: do người lao động chuyển công tác hoặc chuyển nơi ở. Thất nghiệp tạm thời là thất nghiệp tự nguyện.
§  Thất nghiệp do cơ cấu: do cơ cấu ngành thay đổi (ngành này mở rộng trong khi ngành kia thu hẹp...). Thất nghiệp do cơ cấu cũng là thất nghiệp tự nguyện.
§  Thất nghiệp chu kỳ: xảy ra theo sự đi xuống của chu kỳ kinh tế. Thất nghiệp chu kỳ còn được gọi là thất nghiệp do thiếu cầu hay thất nghiệp theo lý thuyết Keynes và là thất nghiệp không tự nguyện.


Kinh tế học : Phân loại thất nghiệp như thế nào?


Vụ Exxon
Ngày 24-3-1989, tàu Exxon Valdez đổ dầu thô ngoài khơi Alaska. Một cuộc đánh giá thiệt hại được tiến hành, chủ yếu sử dụng phương pháp đánh giá có điều kiện và ngày 8-10-1991, Exxon bị xử phải trả một tỷ đôla cho bang Alaska và cho Chính phủ liên bang, trong đó có 100 triệu tiền phạt, phần còn lại trả rải đều trong 11 năm không tính lãi.



Tuy nhiên vụ việc không chấm dứt ở đây. Ngay từ tháng 4-1991, Exxon tuyển dụng nhiều nhà kinh tế để tiến hành một cuộc nghiên cứu thực nghiệm và lý thuyết về độ tin cậy của phương pháp đánh giá có điều kiện và tổ chức một hội thảo về những công trình này tại Washington trong hai ngày 2 và 3-4-1992.

Cho dù có sự có mặt của những nhà kinh tế từng tham gia vào việc đánh giá thiệt hại của thủy triều đen năm 1989, nhưng hầu hết những người tham gia là những thẩm phán hoặc viên chức chính phủ và duy chỉ các nhà tư vấn của Exxon mới được đăng đàn. Do những công trình trình bày chỉ được phát ngay sau khi bắt đầu hội thảo, dữ liệu được sử dụng trong các cuộc nghiên cứu thực nghiệm không được cung cấp, những câu hỏi được nêu lên trong hội thảo bị sàng lọc gắt gao, nên cuộc hội thảo này xuất hiện giống như một bài tập tranh thủ công chúng hơn là một cuộc hội thảo khoa học.
Kết luận của các nhà tư vấn là rõ ràng: không thể tiến hành đánh giá có điều kiện đúng đắn và thậm chí không nên thử làm việc này.

Cũng vào thời gian đó, Exxon ráo riết vận động hành lang chính quyền tổng thống Bush, đặc biệt là Viện quốc` gia nghiên cứu đại dương và khí quyển (National Oceanic & Atmospheric Administration NOAA) được Quốc hội ủy quyền năm 19992 việc hoàn chỉnh những phương thức đánh giá một cách hợp pháp các thiệt hại liên quan đến thủy triều đen. Một tuần sau khi cuộc hội thảo trên, NOAA thông báo thành lập một nhóm chuyên gia khoa học (do hai nhà kinh tế được giải Nobel là Kenneth Arrow và Robert Solow làm chủ tịch) để phán xét tính thích đáng của phương pháp đánh giá có điều kiện.
Kết luận của nhóm chuyên gia này nhấn mạnh lợi ích của phương pháp có điều kiện là phải tuân thủ một phương thức ứng dụng chính xác.

Theo Philippe Bontems, Gilles Rotillon. Kinh tế học môi trường. Bản dịch tiếng Việt. 2008. Nhà xuất bản Trẻ. TP. Hồ Chí Minh.

Kinh tế học : Vụ tàu Exxon Valdez đổ dầu thô ngoài khơi Alaska năm 1989

Kinh tế học : đã ra đời từ khi nào và từ đâu? 

Chúng ta có thể lấy năm 1776, khi Adam Smith công bố tác phẩm kinh điển của ông “The wealth of nations” là năm khởi đầu của kinh tế học hiện đại.
Trong tác phẩm này, Adam Smith đã đề ra chính xác các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường. Không phải ngẫu nhiên mà tác phẩm này lại ra đời cùng năm với Bản tuyên ngôn độc lập: Phong trào giành tự do chính trị từ chế độ quân chủ tàn bạo ở châu Âu đã làm dấy lên đồng thời yêu cầu giải phóng thương mại và công nghiệp khỏi tàn tích cổ hủ của giai cấp quý tộc phong kiến.

Hoàn toàn chính xác khi coi Adam Smith là người đã đặt nền móng cho lĩnh vực kinh tế học vi mô, một nhánh của kinh tế học đi sâu nghiên cứu hành vi của các chủ thể riêng biệt như các thị trường, các hãng, các hộ gia đình. Trong tác phẩm “The wealth of nations”, Adam Smith đã nghiên cứu các loại giá cả riêng biệt được hình thành như thế nào, giá đất đai, lao động và vốn được xác định ra sao, khảo cứu về những điểm mạnh và yếu của cơ chế thị trường. Điều quan trọng nhất là ông đã xác định được một trong những tính chất hiệu quả đặc biệt của thị trường, một bàn ta vô hình đã mang lại lợi ích chung từ những hành động vị kỷ của cá nhân. Cho tới nay, các tính chất đó vẫn giữ nguyên tầm quan trọng của nó. Mặc dù từ thời đại của Adam Smith tới nay, nghiên cứu về kinh tế học vi mô đã có nhiều tiến bộ lớn lao, song các nguyên lý do Adam Smith đề ra vẫn được các nhà chính trị và các nhà kinh tế thường xuyên trích dẫn.

Ngược lại, kinh tế vĩ mô, một nhánh khác của kinh tế học quan tâm đến các hoạt động tổng thể của nền kinh tế lại chỉ mang dáng dấp hiện đại từ năm 1936, khi John Maynard Keynes công bố tác phẩm có tính cách mạng của ông “Lý thuyết chung về việc làm, tiền lãi và tiền tệ”. Vào thời điểm đó, nước Anh và Mỹ đều đang chìm sâu trong cuộc đại suy thoái của những năm 1930, tỷ lệ thất nghiệp lên đến một phần tư lực lượng lao động xã hội. Trong khi nghiên cứu để tìm lối thoát, Keynes đã nhấn mạnh rằng, nền kinh tế thị trường có thể không làm tròn chức năng của nó. Trong tác phẩm của mình, ông đã phát triển lý thuyết giải thích về nguyên nhân thất nghiệp và suy thoái kinh tế, về việc đẩu tư tiêu dùng được xác định như thế nào, về việc các ngân hàng trung ương quản lý tiền tệ và lãi suất ra sao, và vì sao một số quốc gia lại trở nên phát đạt trong khi các nước khác rơi vào đình trệ. Keynes còn cho rằng chính phủ có vai trò quan trọng trong việc làm giảm bớt những bước thăng trầm của các chu kỳ kinh doanh. Mặc dù nhiều nhà kinh tế không thừa nhận các luận thuyết và cách giải thích cụ thể của Keynes, song những vấn để ông đặt ra vẫn là đối tượng nghiên cứu kinh tế học vĩ mô hiện nay.

Hai nhánh – kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô – hợp lại để hình thành nên kinh tế học hiện đại. Ranh giới phân biệt giữa chúng rất mỏng manh, gần đây hai nhánh này đã hội nhập lại khi các nhà kinh tế học ứng dụng các công cụ của kinh tế học vi mô để giải thích các vấn đề về thất nghiệp và lạm phát. Vì vậy, để nâng cao hiểu biết đầy đủ về kinh tế học, chúng ta cần tiếp tục khám phá thêm cả hai bến bờ của dòng sông này. 


Theo Paul A Samuelson, Wiliam D. Nordhalls (1948),
Kinh tế học, Nhà xuất bản tài chính, tái bản lần 1 (2007)



Theo sgdck.com thì: Tài sản tài chính là các loại tài sản không tham gia trực tiếp quá trình sản xuất hàng hóa, dịch vụ, như tiền, vàng, cổ phiếu, trái phiếu, các loại giấy tờ có giá... Các loại tài sản này chỉ là những chứng chỉ bằng giấy hoặc có thể chỉ là những dữ liệu trong máy tính, sổ sách. Còn tài sản phi tài chính (tài sản thực) là các loại tài sản trực tiếp tham gia quá trình sản xuất hàng hóa, dịch vụ, như: đất đai, nhà xưởng, máy móc thiết bị, chất xám...

Tài sản tài chính yêu cầu cao về lợi tức mà các tài sản thực tạo ra. Nói cách khác, tài sản thực tạo ra lợi tức thuần cho nền kinh tế, còn tài sản tài chính thì định ra sự phân phối lợi tức hoặc của cải giữa các nhà đầu tư.



Phân biệt tài sản tài chính và tài sản phi tài chính (tài sản thực) không là cần thiết trong kinh tế học vĩ mô.


Phân biệt tài sản tài chính và tài sản phi tài chính (tài sản thực) như thế nào?

Author Name

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.