Kinh tế học : đã ra đời từ khi nào và từ đâu?
Hai nhánh – kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô – hợp lại để hình thành nên kinh tế học hiện đại. Ranh giới phân biệt giữa chúng rất mỏng manh, gần đây hai nhánh này đã hội nhập lại khi các nhà kinh tế học ứng dụng các công cụ của kinh tế học vi mô để giải thích các vấn đề về thất nghiệp và lạm phát. Vì vậy, để nâng cao hiểu biết đầy đủ về kinh tế học, chúng ta cần tiếp tục khám phá thêm cả hai bến bờ của dòng sông này.
Chúng ta có thể lấy năm 1776, khi Adam Smith công bố tác phẩm kinh điển của ông “The wealth of nations” là năm khởi đầu của kinh tế học hiện đại.
Trong tác phẩm này, Adam Smith đã đề ra chính xác các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường. Không phải ngẫu nhiên mà tác phẩm này lại ra đời cùng năm với Bản tuyên ngôn độc lập: Phong trào giành tự do chính trị từ chế độ quân chủ tàn bạo ở châu Âu đã làm dấy lên đồng thời yêu cầu giải phóng thương mại và công nghiệp khỏi tàn tích cổ hủ của giai cấp quý tộc phong kiến.
Hoàn toàn chính xác khi coi Adam Smith là người đã đặt nền móng cho lĩnh vực kinh tế học vi mô, một nhánh của kinh tế học đi sâu nghiên cứu hành vi của các chủ thể riêng biệt như các thị trường, các hãng, các hộ gia đình. Trong tác phẩm “The wealth of nations”, Adam Smith đã nghiên cứu các loại giá cả riêng biệt được hình thành như thế nào, giá đất đai, lao động và vốn được xác định ra sao, khảo cứu về những điểm mạnh và yếu của cơ chế thị trường. Điều quan trọng nhất là ông đã xác định được một trong những tính chất hiệu quả đặc biệt của thị trường, một bàn ta vô hình đã mang lại lợi ích chung từ những hành động vị kỷ của cá nhân. Cho tới nay, các tính chất đó vẫn giữ nguyên tầm quan trọng của nó. Mặc dù từ thời đại của Adam Smith tới nay, nghiên cứu về kinh tế học vi mô đã có nhiều tiến bộ lớn lao, song các nguyên lý do Adam Smith đề ra vẫn được các nhà chính trị và các nhà kinh tế thường xuyên trích dẫn.
Ngược lại, kinh tế vĩ mô, một nhánh khác của kinh tế học quan tâm đến các hoạt động tổng thể của nền kinh tế lại chỉ mang dáng dấp hiện đại từ năm 1936, khi John Maynard Keynes công bố tác phẩm có tính cách mạng của ông “Lý thuyết chung về việc làm, tiền lãi và tiền tệ”. Vào thời điểm đó, nước Anh và Mỹ đều đang chìm sâu trong cuộc đại suy thoái của những năm 1930, tỷ lệ thất nghiệp lên đến một phần tư lực lượng lao động xã hội. Trong khi nghiên cứu để tìm lối thoát, Keynes đã nhấn mạnh rằng, nền kinh tế thị trường có thể không làm tròn chức năng của nó. Trong tác phẩm của mình, ông đã phát triển lý thuyết giải thích về nguyên nhân thất nghiệp và suy thoái kinh tế, về việc đẩu tư tiêu dùng được xác định như thế nào, về việc các ngân hàng trung ương quản lý tiền tệ và lãi suất ra sao, và vì sao một số quốc gia lại trở nên phát đạt trong khi các nước khác rơi vào đình trệ. Keynes còn cho rằng chính phủ có vai trò quan trọng trong việc làm giảm bớt những bước thăng trầm của các chu kỳ kinh doanh. Mặc dù nhiều nhà kinh tế không thừa nhận các luận thuyết và cách giải thích cụ thể của Keynes, song những vấn để ông đặt ra vẫn là đối tượng nghiên cứu kinh tế học vĩ mô hiện nay.
Hai nhánh – kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô – hợp lại để hình thành nên kinh tế học hiện đại. Ranh giới phân biệt giữa chúng rất mỏng manh, gần đây hai nhánh này đã hội nhập lại khi các nhà kinh tế học ứng dụng các công cụ của kinh tế học vi mô để giải thích các vấn đề về thất nghiệp và lạm phát. Vì vậy, để nâng cao hiểu biết đầy đủ về kinh tế học, chúng ta cần tiếp tục khám phá thêm cả hai bến bờ của dòng sông này.
Theo Paul A Samuelson, Wiliam D. Nordhalls (1948),
Kinh tế học, Nhà xuất bản tài chính, tái bản lần 1 (2007)
Kinh tế học, Nhà xuất bản tài chính, tái bản lần 1 (2007)
Đăng nhận xét